Cuộc đời Phổ Nghi hoàng đế có nhiều thăng trầm
Chúng ta đều biết rằng Pu Yi là vị vua cuối cùng của nhà Thanh và cũng là người chứng kiến sự sụp đổ của triều đại này. Cuộc đời của vị hoàng đế này có thể tóm gọn trong hai từ: “thăng trầm”.
Phổ Nghị (1906 – 1967) là con trai cả của Hoàng tử Tài Phong, lên ngôi lúc 2 tuổi sau cái chết của chú là Hoàng đế Quang Tú. Vì lên ngôi khi còn trẻ nên Phổ Nghị cai trị đất nước dưới sự giám hộ của một nhiếp chính, ban đầu là cha ông và từ tháng 12 năm 1911 là Thái hậu Long Du.
Sau thất bại của nhà Thanh trong các cuộc chiến tranh nha phiến (1840 – 1842 và 1857 – 1860), chiến tranh Trung – Nhật (1894 – 1895), đặc biệt là liên quân 8 nước đánh phá Bắc Kinh (1900) cũng như chính quyền đế quốc. thực hiện “quốc hữu hóa đường sắt”… người dân Trung Quốc ngày càng bất mãn, muốn cải cách thể chế chính trị, xóa bỏ nhà Thanh.
Ngày 12 tháng 2 năm 1912, Phổ Nghi thoái vị sau Cách mạng Tân Hợi do Tôn Trung Sơn (còn gọi là Tôn Trung Sơn) lãnh đạo. Puyi lúc này mới 6 tuổi và được phép tiếp tục sống trong Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh. Pu Yi cũng vẫn giữ danh hiệu hoàng đế dù chỉ là danh hiệu trên danh nghĩa và chính phủ Cộng hòa đối xử với ông như một hoàng đế nước ngoài. Chính phủ mới cũng trợ cấp cho Phổ Nghi 4 triệu lạng bạc mỗi năm.
Pu Yi được người Nhật bổ nhiệm làm nguyên thủ quốc gia bù nhìn Mãn Châu quốc năm 1932. (Ảnh: Sohu)
Tuy nhiên, vào năm 1924, Phổ Nghi bị tướng Quốc dân Phùng Ngọc Tưởng trục xuất khỏi Tử Cấm Thành và buộc phải lưu vong. Sau năm 1925, ông chuyển đến sống ở khu vực Thiên Tân do quân đội Nhật chiếm đóng. Năm 1932, Phổ Nghi được người Nhật bổ nhiệm làm Nguyên thủ quốc gia bù nhìn Mãn Châu quốc. Năm 1934, ông chính thức lên ngôi Hoàng đế Đại Mãn Châu Quốc, lấy hiệu là Khang Đức.
Pu Yi không hài lòng với việc trở thành Nguyên thủ quốc gia Mãn Châu quốc và sau đó là Hoàng đế của Đế quốc Đại Mãn Châu thay vì được phục hồi hoàn toàn làm Hoàng đế của Đại Thanh. Ông luôn âm thầm xung đột với Nhật Bản nhưng bề ngoài vẫn phục tùng.
Một trong những lần Phổ Nghi bày tỏ quan điểm thực sự đã “cứu” Vạn Lý Trường Thành khỏi nguy cơ bị phá hủy. Cụ thể, điều này xảy ra như thế nào?
8 từ để “cứu” Vạn Lý Trường Thành Phổ Nghi
Năm 1933, người Nhật tấn công Vạn Lý Trường Thành. Hiệp định Tanggu sau đó đã được soạn thảo, trao cho Nhật Bản quyền kiểm soát tỉnh Renhe cũng như khu phi quân sự giữa Vạn Lý Trường Thành và khu vực Bắc Kinh-Thiên Tân. Quân đội Nhật Bản thậm chí còn có ý định phá hủy Vạn Lý Trường Thành để có thể dễ dàng chiếm đóng khu vực Bắc Trung Quốc của Trung Quốc. Khi đó, phía Nhật đã tập trung số lượng lớn máy bay và pháo binh để chuẩn bị triển khai.
Quân đội Nhật Bản có ý định phá hủy Vạn Lý Trường Thành để có thể dễ dàng chiếm đóng khu vực Bắc Trung Quốc của Trung Quốc. (Ảnh: Sohu)
Tuy nhiên, khi biết tin này, Phổ Nghị đã lập tức viết một lá thư chỉ 8 chữ cho các quan chức cấp cao của Nhật Bản. Nội dung bức thư là “Nếu Vạn Lý Trường Thành bị phá hủy, nếu Vạn Lý Trường Thành bị phá hủy, nếu Vạn Lý Trường Thành bị phá hủy thì sự hợp tác thịnh vượng sẽ thất bại”. Bức thư này tuy ngắn nhưng thể hiện rõ ý tưởng Vạn Lý Trường Thành là nền móng và cũng là một trong những biểu tượng của Trung Quốc. Một khi Vạn Lý Trường Thành bị quân đội Nhật Bản phá hủy, điều này chắc chắn sẽ khơi dậy sự phản kháng và hận thù của người dân Trung Quốc. Điều này hoàn toàn không có lợi cho sự hợp tác thịnh vượng của hai nước.
Phổ Nghi viết tâm thư chỉ 8 chữ và “cứu” Vạn Lý Trường Thành khỏi bị quân Nhật phá hủy (Ảnh: Sohu)
Sau khi đọc thư của Phổ Nghị, các quan chức cấp cao Nhật Bản thấy việc từ bỏ kế hoạch phá hủy Vạn Lý Trường Thành là hợp lý. Vì vậy, tác phẩm này đã được bảo tồn cho đến ngày nay.
Quả thực, trong tâm thức người dân Trung Quốc, Vạn Lý Trường Thành được coi là công trình vĩ đại có ý nghĩa lịch sử, văn hóa to lớn. Vạn Lý Trường Thành là tên gọi chung cho nhiều thành trì trải dài hàng nghìn km từ Đông sang Tây, được xây dựng bằng đất và đá từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên đến thế kỷ 16.
Sau khi đọc thư của Phổ Nghị, các quan chức cấp cao Nhật Bản từ bỏ kế hoạch phá hủy Vạn Lý Trường Thành. (Ảnh: Sohu)
Một số đoạn tường thành được xây dựng vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, sau đó Hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc là Tần Thủy Hoàng ra lệnh nối lại và xây dựng thêm từ năm 220 trước Công nguyên và 200 trước Công nguyên. Tuy nhiên, hầu hết các công trình Vạn Lý Trường Thành được biết đến ngày nay đều được xây dựng quy mô lớn từ thời nhà Hán và nhà Minh.
Trên hệ thống tường thành, nhiều tháp canh cũng được xây dựng. Theo các chuyên gia quân sự, nhờ công trình này mà nhiều triều đại Trung Quốc đã đứng vững trước sự tấn công của giặc ngoại xâm cũng như góp phần bình định nội loạn. Việc xây dựng Vạn Lý Trường Thành không chỉ là một kỳ tích mà còn thể hiện sự kết nối, liên tục của các triều đại. Công trình đồ sộ và hoành tráng này ngày nay đã trở thành kỳ quan vĩ đại trong lịch sử nhân loại và được đưa vào “Danh sách Di sản Văn hóa Thế giới” vào năm 1987.