Các nhà khoa học đang cố gắng thực hiện một nhiệm vụ hấp dẫn, đó là hồi sinh loài bò rừng châu Âu – Aurochs, một loài bò cổ xưa đã bị thất lạc từ lâu trong sương mù lịch sử.
Con bò đực “Lucio” từ dự án Taurus và một tác phẩm điêu khắc cổ xưa về bò rừng bằng bạc.
Bò rừng (Bos primigenius) là một sinh vật to lớn từng lang thang trên đồng cỏ và rừng ở Âu Á và Bắc Phi. Nó là một trong những loài động vật ăn cỏ lớn nhất trong Thế Holocene, với chiều cao đến vai lên tới 180 cm (71 in) ở bò đực và 155 cm (61 in) ở bò cái. Nó có sừng dài và rộng, dài tới 80 cm (31 in).
Bò rừng châu Âu cũng là một phần của loài động vật cỡ lớn thế Pleistocene trước đó, và có lẽ đã tiến hóa ở châu Á và di cư về phía tây và phía bắc trong thời kỳ băng hà ấm áp.
Bò rừng là một trong những loài động vật ăn cỏ lớn nhất trong Thế Holocene. (Hình minh họa).
Bò rừng đóng một vai trò quan trọng trong văn hóa và tôn giáo của các dân tộc cổ đại. Nó được mô tả trong các bức tranh hang động thời kỳ đồ đá cũ (chẳng hạn như những bức tranh ở hang động Lascaux và Chauvet ở Pháp), tranh khắc đá thời kỳ đồ đá mới, phù điêu Ai Cập cổ đại và các bức tranh. Những bức tượng thời kỳ đồ đồng.
Nó tượng trưng cho quyền lực, khả năng sinh sản và sức mạnh trong các tôn giáo của vùng Cận Đông cổ đại. Sừng của nó được sử dụng làm đồ dùng trong các nghi lễ hiến tế, làm chiến lợi phẩm và làm sừng uống nước. Người La Mã cổ đại cũng sử dụng loài vật này để thi đấu với những đấu sĩ giỏi nhất của họ.
Bò rừng châu Âu được miêu tả trong các bức tranh hang động thời kỳ đồ đá cũ. (Hình minh họa).
Thật không may, bò rừng cũng đã trở thành nạn nhân của sự khai thác và lạm dụng của con người. Khi dân số loài người mở rộng và nông nghiệp phát triển, bò rừng bị mất phần lớn môi trường sống và nguồn thức ăn.
Chúng cũng bị săn lùng để lấy thịt, da và sừng cũng như để giải trí. Đến thời Trung cổ, số lượng loài vật này đã giảm đáng kể và nó chỉ tồn tại ở những khu vực hoang dã biệt lập . Con bò rừng cuối cùng được biết đến đã chết ở Ba Lan vào năm 1627 , đánh dấu sự tuyệt chủng của loài này.
Bò rừng châu Âu chính thức tuyệt chủng vào năm 1627. (Minh họa).
Tuy nhiên, câu chuyện về chú bò rừng này không dừng lại ở đó. Trong khi tổ tiên hoang dã của gia súc hiện đại đã biến mất, gen của nó vẫn tồn tại trong một số con cháu của nó . Trong cuộc Cách mạng Đồ đá mới, con người đã thuần hóa hai phân loài bò rừng Châu Âu: một ở Cận Đông sản xuất ra taurine (Bos taurus) và một ở Ấn Độ sản xuất ra loài ngựa vằn (Bos indicus). Những gia súc thuần hóa này đã được du nhập đến các khu vực khác nhau trên thế giới, nơi chúng được lai tạo với gia súc hoang dã địa phương hoặc thích nghi với các môi trường khác nhau. Một số giống bò hiện đại có những đặc điểm gợi nhớ đến bò rừng châu Âu, chẳng hạn như màu sẫm và sọc lươn nhạt dọc lưng bò đực, màu nhạt hơn của bò cái hoặc hình dạng sừng tương tự bò rừng châu Âu.
Với mối liên hệ tổ tiên của bò rừng châu Âu với hầu hết các giống gia súc hiện đại, việc hồi sinh thông qua chọn lọc hoặc nhân giống ngược là khả thi. Nỗ lực ban đầu được thực hiện bởi Heinz và Lutz Heck bằng cách sử dụng các giống bò hiện đại để tạo ra giống Heck . Khi được đưa vào các khu bảo tồn thiên nhiên trên khắp châu Âu, bò Heck có những đặc điểm thể chất khác biệt đáng kể so với bò rừng châu Âu. Những nỗ lực hiện tại nhằm mục đích tạo ra một loài động vật gần giống bò rừng về hình thái, hành vi và di truyền.
Gen của bò rừng châu Âu vẫn tồn tại ở một số con cháu của nó. (Hình minh họa).
Trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã cố gắng cứu loài bò rừng châu Âu khỏi nguy cơ tuyệt chủng bằng công nghệ hiện đại và nhân giống chọn lọc . Hai dự án đang dẫn đầu nỗ lực này: Chương trình Tauros ở Hà Lan và Dự án Auerrind ở Đức. Cả hai dự án đều chia sẻ các hoạt động nghiên cứu và chăn nuôi, nhằm mục đích tái tạo một loài động vật giống bò rừng về kích thước, ngoại hình, hành vi và DNA.
Các dự án này sử dụng các ghi chép lịch sử, bằng chứng khảo cổ, phân tích di truyền và hình ảnh nghệ thuật làm hướng dẫn cho mục tiêu nhân giống của họ. Họ cũng sử dụng các giống hiện đại mang một phần DNA bò rừng châu Âu đáng kể, chẳng hạn như bò trắng Chillingham ở miền bắc nước Anh, bò đực chiến đấu Tây Ban Nha ở Bán đảo Iberia và bò Chianina ở Tuscany.
Các dự án hồi sinh bò rừng đã đạt được tiến bộ đáng kể kể từ khi bắt đầu hơn một thập kỷ trước. Họ đã tạo ra nhiều thế hệ động vật ngày càng có nhiều điểm tương đồng với loài bò rừng nguyên thủy. Một số loài động vật này đã được thả vào các khu bảo tồn thiên nhiên hoặc các khu vực tái hoang dã trên khắp châu Âu, nơi chúng có thể góp phần phục hồi hệ sinh thái và bảo tồn đa dạng sinh học. Các dự án hy vọng đạt được mục tiêu cuối cùng là tạo ra một loài động vật không thể phân biệt được về mặt di truyền với bò rừng bison, loài đã tuyệt chủng trong thế kỷ này.
Các nhà khoa học đang cố gắng mang bò rừng trở lại. (Hình minh họa).
Sự hồi sinh của bò rừng châu Âu không chỉ là một thành tựu khoa học mà còn là một thành tựu văn hóa và đạo đức. Đó là một nỗ lực nhằm khắc phục một số thiệt hại mà con người đã gây ra cho thiên nhiên và khôi phục một số vẻ đẹp và sự đa dạng đã mất của sự sống trên Trái đất. Bằng cách đưa loài bò rừng châu Âu trở lại từ sự tuyệt chủng, chúng ta cũng đang mang lại một phần lịch sử và di sản của chính mình.
- Bò rừng kỷ băng hà “hồi sinh” sau 9.300 năm ngủ sâu dưới lớp băng vĩnh cửu
- Skull Mountain vạch trần vụ thảm sát bò rừng lớn
- Hồi sinh bò rừng nặng 1.500kg đã tuyệt chủng 400 năm