Trần Nhật Duật, hiệu là Chiêu Văn Vương hay Chiêu Văn Đại Vương, là nhà quân sự Đại Việt, nhà chính trị xuất sắc của triều đại nhà Trần.
Từ nhỏ, Trần Nhật Duật đã bộc lộ trí thông minh của một thiên tài. Ngoài kiến thức chính trị, lịch sử, khả năng ngoại ngữ cũng như sự am hiểu văn hóa các nước của ông cũng khiến nhiều người bất ngờ.
Thời trẻ, Trần Nhật Duật đã bộc lộ trí thông minh của một thiên tài. Sau này, ông không chỉ nổi tiếng là người am hiểu lịch sử, giỏi chính trị, quân sự mà còn rất thông thạo ngôn ngữ, phong tục của các nước láng giềng và các dân tộc thiểu số trong nước.
Một lần, Trần Nhật Duật giúp vua Trần Nhân Tông phiên dịch khi có sứ bộ Sách Mã Tích (tên cổ của Singapore) sang triều cống. Điều đáng nói là nhà vua đã triệu tập những người phiên dịch giỏi nhất vì không ai có thể nói được Sách phép thuật. Nghe tin, Trần Nhật Duật lập tức đến xem linh và ăn nói lưu loát khiến ai nấy đều khâm phục. Trần Nhật Duật giải thích sở dĩ ông thích sách Mã Tích là vì: “Đời vua Thái Tông, sứ các nước sang sứ, qua giao thiệp với họ nên cũng hiểu được ít nhiều tiếng nước ấy”. .
Trần Nhật Duật giỏi tiếng Chăm nhất vì ông thường cưỡi voi về thăm làng Ba Gia (nay là phía Tây Hà Nội) để nói chuyện với thổ dân gốc Chăm là tù binh. Bên cạnh đó, anh cũng đã tìm hiểu về văn hóa ở đây nên thường ở lại vài ngày.
Thậm chí nhà vua còn thán phục tài ngoại ngữ của Trần Nhật Duật và hài hước khen: “Chiêu Văn Vương chắc không phải người Việt, mà là đời sau của người Phiên, người Nam (chỉ các dân tộc láng giềng ở khu vực Đông Nam Á thời bấy giờ). ”.
Nhờ hiểu biết về sự đa dạng văn hóa, ông đã có nhiều đóng góp cho triều đình.
Năm 1280, Trần Nhật Duật được lệnh đem quân dẹp loạn khi Trịnh Giác Mật – một hào trưởng ở Đà Giang (Tây Bắc) làm phản triều đình giữa lúc nhà Nguyên chuẩn bị đem quân sang xâm lược nước ta. lần thứ hai. .
Nhận được thư xin đi Giác Mật một mình, Trần Nhật Duật cùng đàn em lên đường mặc cho các tướng can ngăn. Khi đến đây, ông không sợ hãi mà đi giữa đám lính và nói với Giác Mật bằng ngôn ngữ của mình cũng như theo phong tục Đà Giang: “Tiểu nhân chúng tôi đi đường bị nóng tai trái, khi đến đây nóng tai phải”. Nghe vậy, Giác Mi vô cùng ngạc nhiên.
Khi mâm rượu được bưng lên, Trần Nhật Duật rất tự nhiên gắp thịt ăn, vừa nhai vừa cầm bầu rượu rót từ từ vào lỗ mũi một cách điệu nghệ bởi người Đà Giang có tục “ăn bằng tay, uống bằng mũi”. .
Thấy Trần Nhật Duật thông hiểu phong tục như vậy, Trịnh Giác Mật ngạc nhiên: “Chiêu Văn Vương là anh tôi”. Nghe vậy, tướng quân cũng đáp: “Chúng ta mãi mãi là anh em” rồi gọi mở tráp lấy ra những chiếc vòng bạc sáng loáng trao cho tù trưởng Đà Giang cùng từng món đồ.
Sau đó, Trịnh Giác Mật đến doanh trại Trần Nhật Duật xin hàng. Thế là không cần đổ máu, Trần Nhật Duật đã chinh phục cả vùng Đà Giang bằng sự thông thạo ngôn ngữ và phong tục của mình.
Trong số các quan nhà Trần, tiếng Hán được cho là ngoại ngữ thông dụng nhất và Trần Nhật Duật là người nổi bật nhất.
Ông cũng là một ngoại lệ khi ra Bắc mà không có phiên dịch. Ông thường trò chuyện trực tiếp với sứ Nguyên, thậm chí còn thân thiết, nói chuyện vui vẻ như bạn bè. Với sự thông thạo ngôn ngữ và hiểu biết văn hóa, sứ thần nhà Nguyên đã nhầm tưởng Trần Nhật Duật là người Triều Tiên di cư: “Ông ấy quê ở Chân Định (một huyện thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc) đến đây làm quan. ?”
Dù đã giải thích nhưng Nguyên vẫn một mực khẳng định mình là người Hán vì không thể có một người Việt nào giỏi tiếng Hán đến thế. Sở dĩ Trần Nhật Duật giỏi tiếng Hán là vì ông có quan hệ thân thiết với người Hán ở kinh thành Thăng Long. Ông thường đến nhà Trần Đạo Chiêu (người Tống) đàm đạo hàng ngày và cũng thường đến thăm chùa Tường Phù, đàm đạo với các nhà sư người Tống.