Qua nhiều thế kỷ, công nghệ lặn đã đạt được những bước tiến vượt bậc, nhưng con người cũng đã đạt đến giới hạn của mình và đã đến lúc robot đảm nhận công việc nặng nhọc đó.
Khoảng 363 triệu km2 , hơn 50% Trái đất được bao phủ bởi các đại dương. Tuy nhiên, hiểu biết của các nhà khoa học về những gì nằm bên dưới bề mặt Trái đất là rất hạn chế. Trong vài thế kỷ qua, các nhà phát minh, nhà nghiên cứu và hải quân đã tìm mọi cách để cải thiện khả năng lặn sâu của con người nhằm mục đích khám phá đại dương bao la.
Một trong những vấn đề là đại dương rất sâu và càng xuống sâu, áp lực lên các thợ lặn càng lớn. Có thời điểm, đáy đại dương có độ sâu lên tới 10.668m. Để so sánh, độ cao đó tương đương với độ cao của một chiếc máy bay thương mại so với mặt đất. Ngoài ra, từ độ sâu 1.000m trở đi, ánh sáng cũng hoàn toàn biến mất dưới đáy đại dương. (Ảnh: Đại học Nam Florida).
Mặc dù nguy hiểm, nhưng trong nhiều thế kỷ, con người đã tìm cách tiếp cận bên dưới đại dương để khám phá những con tàu đắm, thu thập thức ăn hoặc tìm những vật liệu quý như ngọc trai và bọt biển. (Ảnh: AP).
Lần đầu tiên con người có thể ở dưới nước là nhờ chuông lặn. Kể từ thời Aristotle năm 400 TCN, người ta đã nhắc đến chuông lặn. Năm 1690, một người đàn ông tên là Edmund Halley đã được cấp bằng sáng chế chuông lặn với một đường ống dẫn không khí đến cho thợ lặn. Về cơ bản, chuông lặn là một buồng rắn được thả xuống biển, cho phép một người ngồi và thở, bơi ra và bơi trở lại khi họ cần thêm không khí. (Ảnh: Wikimedia).
Năm 1827 , bộ đồ lặn đầu tiên được phát minh bởi Augustus Siebe , một kỹ sư người Anh, bằng cách lấy chiếc mũ chống khói bằng đồng của lính cứu hỏa và gắn nó vào đầu của thợ lặn. Phiên bản đầu tiên của bộ đồ lặn này khá thô sơ bởi nếu thợ lặn di chuyển sai cách khi ở dưới nó, nước sẽ tràn vào mũ bảo hiểm. (Ảnh: The Illustrated London News).
Siebe sau đó đã cải thiện lỗ hổng chết người này bằng một phiên bản chống thấm nước được gắn vào bộ đồ của thợ lặn. Theo đó, thợ lặn được kết nối với bề mặt bằng các ống. Từ trên cao, một đội lên bờ sẽ bơm không khí xuống. Khi nhiệm vụ hoàn thành, họ có thể đóng một van trong bộ đồ và không khí được bơm sẽ lấp đầy bộ đồ giúp người thợ lặn nổi trở lại. (Ảnh: Alamy).
Trong những thập kỷ sau đó, trang phục của thợ lặn thường là những bộ quần áo cồng kềnh, làm bằng vật liệu nặng như vải bạt, với mũ bảo hiểm kim loại khổng lồ, thắt lưng bằng chì nặng khoảng 27,2 kg. và giày đế chì nặng khoảng 8,1 kg. (Ảnh: Alamy).
Bộ đồ khiến thợ lặn thường loạng choạng cho đến khi họ có thể xuống nước. Tuy nhiên, nó cho phép thợ lặn di chuyển tự do ở mực nước biển, trục vớt và khám phá xác tàu đắm cũng như tìm kiếm những phần sâu hơn của đại dương vẫn chưa được biết đến. (Ảnh: Alamy).
Mặc dù vậy, các thợ lặn vẫn bị giới hạn bởi độ sâu mà họ có thể tiếp cận dưới lòng đại dương. Năm 1878, các chuyên gia lần đầu tiên nhận ra áp suất khí , một tình trạng có khả năng gây chết người, trong đó bong bóng nitơ phồng lên trong máu của thợ lặn nếu họ quay trở lại bề mặt quá nhanh. (Ảnh: Shutterstock).
Vào đầu thế kỷ 20, các lực lượng vũ trang trên khắp thế giới bắt đầu đào tạo thợ lặn chuyên nghiệp. Đặc biệt, bắt đầu từ năm 1912, trước mối đe dọa ngày càng lớn của tàu ngầm quân đội Đức, Hải quân Mỹ đã khởi động chương trình cải tiến phương pháp lặn sâu. Giữa năm 1912-1915, các thợ lặn hải quân đã tăng độ sâu mà họ có thể lặn từ khoảng 18,2 m lên 83,5 m. (Ảnh: Alamy).
Năm 1930, chuyến lặn biển sâu đầu tiên trên thế giới trên một con tàu diễn ra ngoài khơi một hòn đảo tên là Nonsuch. Tại đây, các thợ lặn xuống lòng đại dương trong một tàu lặn hình cầu (Bathysphere), thực chất là một quả cầu thép lớn có ba cửa sổ nhỏ làm bằng thạch anh để nhìn xuyên qua. (Ảnh: Alamy).
Hai người tham gia chuyến đi lịch sử này là kỹ sư Otis Barton và nhà sinh học biển William Beebe. Với cửa sổ, cả hai có thể quan sát những gì dưới đáy đại dương và ghi lại. Cuộc lặn thành công và khi quay trở lại mặt nước, Beebe đã mãi mãi thay đổi. Nhà sinh học biển cho rằng màu vàng của mặt trời “không bao giờ có thể tuyệt vời bằng màu xanh của đại dương”. Hai người cũng phát hiện ra hơn chục loài cá mới, nhưng chúng phải được minh họa bằng hình vẽ vì rất khó chụp ảnh qua cửa sổ nhỏ trên tàu lặn. (Ảnh: Alamy).
Thời kỳ này, bộ đồ lặn cá nhân cũng liên tục được đổi mới. Năm 1942, thợ lặn người Pháp Jacques-Yves Cousteau lần đầu tiên giới thiệu thiết bị lặn Aqua-Lung (bộ điều chỉnh lặn hai ống). Phát minh của Cousteau dựa trên bộ điều chỉnh ô tô, giúp giải phóng không khí khi thợ lặn khó thở. (Ảnh: Jake’s Rolex World).
Với Aqua-Lung, hoạt động lặn biển sâu đã có một bước tiến vượt bậc vì nó cho phép thợ lặn kiểm soát hơi thở của chính họ. Đến những năm 1950, các cơ quan quản lý đã phổ biến rộng rãi thiết bị này. Sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ đã giúp cho các thợ lặn có thể lặn sâu hơn trong hành trình khám phá đại dương của mình. Tuy nhiên, cuối cùng, con người dường như đạt đến giới hạn. Cho đến nay, con người vẫn chưa thể phá kỷ lục năm 1988 về độ sâu lặn khi chưa ở trong tàu ngầm 534 m. (Ảnh: Hải quân Mỹ).
Thay vào đó, quá trình chuyển đổi sang công nghệ đã bắt đầu. Năm 1985, lần đầu tiên một robot dưới đáy biển quay phim xác tàu Titanic. Kể từ đó, việc sử dụng robot biển sâu đã bùng nổ. Hơn 30 năm sau, ước tính có khoảng 10.000 robot được sử dụng để nghiên cứu đại dương và khoan dầu. So với con người, robot có thể ở dưới lâu hơn, lặn sâu hơn và đặc biệt là có thể gửi lại thông tin thu thập được ngay lập tức. (Ảnh: Ken Kiefer).
- Thiết bị giúp lặn biển không cần dùng bình dưỡng khí
- Công nhân đào tảng đá đỏ như máu, chuyên gia: “Đây là kho báu”
- Vì sao nhà cổ xây hơn 100 năm trên đầm lầy nhưng không hề bị sụt lún?