Isechi Makoto là kỹ sư phần mềm tự do và vợ anh là đầu bếp. Vợ chồng anh còn mấy tháng nữa mới trả hết nợ.
Isechi lớn lên ở thành phố Kagoshima, trên bờ biển phía nam Nhật Bản. Anh ấy bắt đầu sự nghiệp của mình bằng việc bán nhạc cụ tại một cửa hàng bán lẻ và chơi guitar trong một ban nhạc nhỏ trước khi thành lập một công ty công nghệ thông tin cùng với các nhạc sĩ đồng nghiệp.
Khi công ty phá sản vào năm 2019, Isechi gánh khoản nợ 35.000 USD trong khi vợ anh phải vay tiền để trả học phí học nấu ăn.
Isechi đóng cửa công ty và quyết định trở thành một nhà thiết kế trang web tự do. Anh ấy đã tự học cách viết mã và sử dụng Photoshop bằng cách xem các video trên YouTube và tham gia các khóa học trực tuyến. Trong 3 năm qua, anh dần có được lượng khách hàng ổn định và hiện kiếm được 7.500 USD (177 triệu VND) mỗi tháng.
“Bây giờ chúng ta có thể bắt đầu tương lai của mình,” Isechi nói với Insider.
Tương lai đó không kéo theo nhiều thay đổi trong cuộc sống của cặp đôi. Vợ của Isechi đang nghĩ đến việc chuyển từ một căn hộ ba phòng ở Osaka để mở một nhà hàng Ý ở vùng nông thôn. Nhưng, họ không có kế hoạch sinh con, không cần sở hữu một ngôi nhà và không có mong muốn làm giàu.
Giống như nhiều thế hệ thiên niên kỷ (Millennials hay Gen Y) ở Nhật Bản, Isechi bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Anh hạnh phúc khi được sống thoải mái sau khi chứng kiến những cuộc khủng hoảng kinh tế hay thiên tai.
Tổ chức tư vấn của Trung tâm nghiên cứu Pew định nghĩa thế hệ thiên niên kỷ là những người sinh từ năm 1981 đến năm 1996. Vì vậy, họ hiện ở độ tuổi từ 27 đến 42. Điều này có nghĩa là trong khi thế hệ thiên niên kỷ ở Mỹ có thể đã bắt đầu sự nghiệp trong cuộc Đại khủng hoảng tài chính năm 2008, thì những người Nhật Bản đồng trang lứa với họ đã dành cả cuộc đời trong thời kỳ suy thoái.
Khoảng 27 triệu người – tương đương khoảng 1/5 tổng dân số cả nước – ở Nhật Bản thuộc thế hệ thiên niên kỷ. Con số ở Mỹ là 72 triệu, trong khi Trung Quốc là khoảng 400 triệu.
Phóng viên The Insider đã trò chuyện với 3 thế hệ thiên niên kỷ ở Nhật Bản và 2 chuyên gia kinh tế để hiểu rõ hơn về thế hệ thiên niên kỷ này.
Đừng lao vào như một con thiêu thân
Lớn lên vào đầu những năm 1990 tại thành phố Kagoshima, miền nam Nhật Bản, Isechi và em trai chứng kiến cha mẹ phải vật lộn với các khoản thế chấp và thanh toán xe hơi trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế Nhật Bản.
“Mẹ tôi thường nói với chúng tôi, ‘Đừng bao giờ mượn bất cứ thứ gì’,” Isechi nói.
Isechi có thể đã không chú ý đến lời khuyên của mẹ mình, nhưng anh ấy nói rằng những khó khăn tài chính thời thơ ấu tiếp tục chi phối suy nghĩ của anh ấy.
Isechi trong một kỳ nghỉ ở Hokkaido.
“Thế hệ Y ở Nhật Bản bắt đầu cuộc sống trong thời kỳ suy thoái khi bong bóng kinh tế hình thành và nhiều cha mẹ của họ bị ảnh hưởng. Vì vậy, thế hệ Y bị ảnh hưởng theo nhiều cách hoặc nếu không muốn nói là nhiều hơn”, Seijiro Takeshita, thuộc Đại học Shizuoka, nói với Insider.
Từ năm 1986 đến năm 1991, Nhật Bản trải qua bong bóng kinh tế trong đó giá bất động sản và bất động sản bị thổi phồng lên rất nhiều.
Sau đó, bong bóng tài sản vỡ vào đầu những năm 1990. Tình hình tồi tệ đến mức chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản đã giảm 40% chỉ trong vòng một năm sau khi chỉ số này chạm mức cao gần 39.000 vào tháng 12/1989 và nó vẫn chưa phục hồi trong 30 năm.
GDP của Nhật Bản tăng trung bình khoảng 4% trong những năm 1980, nhưng tốc độ đó đã giảm xuống còn khoảng 1% đến 3% trong hầu hết các năm kể từ những năm 1990.
Đặc biệt, 10 năm bắt đầu từ năm 1991 được gọi là “Thập kỷ mất mát” của Nhật Bản, khi tỷ lệ thất nghiệp của nước này tăng hơn gấp đôi từ 2,1% năm 1991 lên mức cao lịch sử 5,4% vào năm 2002.
Takahide Kiuchi, nhà kinh tế điều hành tại Viện nghiên cứu Nomura, nói với Insider: “Nền kinh tế Nhật Bản đã rơi vào tình trạng trì trệ trong ba thập kỷ, vì vậy thế hệ thiên niên kỷ chưa bao giờ có thời gian vui vẻ”.
“Những điều kiện này khiến họ thận trọng hơn trong chi tiêu và thận trọng hơn trong phong cách làm việc”, ông nói thêm.
Thế hệ thiên niên kỷ của Nhật Bản đã phải hứng chịu hết thảm họa này đến thảm họa khác – bao gồm cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 và trận động đất và sóng thần năm 2011.
Takeshita nói rằng sự liên tiếp của các thảm họa và sự tàn phá kinh tế mà các sự kiện đã hình thành nên thế hệ thiên niên kỷ Nhật Bản và thế giới quan của họ. Ông nói thêm rằng điều này khiến họ “thực tế hơn so với thế hệ cha ông của họ”.
“Họ không giống thế hệ trước – những người sẵn sàng làm việc đến chết – bởi họ đã chứng kiến quá nhiều tiêu cực, dù là trong các vấn đề quốc tế hay thiên tai”, ông Takeshita nói thêm. Theo anh, họ tỉnh táo và thực tế.
Không quan tâm đến việc mua nhà
Theo trang tin tức Statista, tỷ lệ sở hữu nhà của Nhật Bản đã giữ ổn định ở mức khoảng 60% kể từ những năm 1970. Nhưng thế hệ trẻ chiếm tỷ lệ sở hữu nhà ngày càng giảm.
Năm 2018, 26% số nhà thuộc sở hữu của chủ hộ trong độ tuổi từ 30 đến 34 – giảm từ 46% vào năm 1983. Tỷ lệ sở hữu nhà ở độ tuổi từ 35 đến 39 đã giảm từ 60% xuống 44% vào năm 2018.
Jin bên ngoài ngôi nhà đầu tiên của mình ở Kyoto.
Isechi nói: “Tôi không bao giờ có thể tưởng tượng được việc mua một ngôi nhà cho mình. Anh chưa bao giờ cảm thấy kinh tế đủ ổn định để mua nhà một cách an toàn.
Không giống như các bậc cha mẹ và bạn bè đồng trang lứa ở Hàn Quốc, nhiều thế hệ thiên niên kỷ Nhật Bản không khao khát sở hữu nhà riêng.
Takeshita từ Đại học Shizuoka cho biết: “Những thế hệ này đã trải qua thực tế chứng kiến giá bất động sản chạm đáy và vị trí sở hữu một ngôi nhà không quan trọng bằng các thế hệ trước”.
Mặc dù vậy, Jin Gujin, một kỹ sư cơ khí 37 tuổi ở Kyoto, đã tìm được một vị trí phù hợp. Anh vay một khoản 430.000 USD (hơn 10 tỷ đồng) vào năm 2022 để mua 2 bất động sản rồi cải tạo thành nhà ở chung và cho thuê.
Jin có thể cho thuê tối đa 12 người và tính phí mỗi người 470 USD (tương đương hơn 10 triệu đồng) một tháng, mang lại thu nhập hơn 5.600 USD (tương đương 132 triệu đồng).
Với số tiền anh vay và lãi hàng tháng 1.000 USD (gần 24 triệu đồng), tiền thuê nhà có thể trả được. Jin sẽ mất khoảng 7 năm để trả nợ.
Anh ấy sống ở một trong hai ngôi nhà của mình và nói rằng nếu không kinh doanh cho thuê, anh ấy sẽ bằng lòng thuê một phòng trong một ngôi nhà chung. “Tôi nghĩ người Nhật rất vui khi thuê nhà cho đến chết,” anh nói.
Có thể không làm việc đến chết, nhưng vẫn làm việc hàng giờ
Vào một ngày làm việc thông thường, Jin làm việc 12 tiếng tại văn phòng, nơi anh thiết kế điện thoại thông minh, máy ảnh và máy tính bảng trong 13 năm qua.
Khi anh ấy về nhà lúc 10 giờ tối, anh ấy dành cả đêm để chơi trò chơi điện tử hoặc đọc tiểu thuyết truyện tranh. Anh ấy ngủ khoảng 4 tiếng mỗi đêm.
“Vì tôi dành nhiều thời gian hơn ở văn phòng nên tôi cần thời gian cho sở thích và các mối quan hệ cá nhân của mình”, Jin nói với Insider. “Thông thường tôi sẽ đi ngủ lúc 3 hoặc 4 giờ sáng, sau đó thức dậy lúc 7:30 để làm việc.”
“Ở công ty của tôi, làm thêm 20 giờ một tuần là chuyện bình thường,” anh nói thêm.
Tuy nhiên, mọi thứ đang thay đổi. Millennials đang bắt đầu xa lánh văn hóa làm thêm giờ. Theo dữ liệu từ Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), người dân Nhật Bản đã làm việc ít giờ hơn so với thời kỳ trước đại dịch. Trung bình một lao động Nhật Bản làm việc 1.644 giờ/năm trong năm 2019, giảm 5% so với năm 2010.
Đừng nghĩ đến việc có con
Suganuma Natsuki, 33 tuổi, sống ở Tokyo, nghỉ việc vào năm 2021 để thành lập một công ty nghiên cứu vi sinh vật. Một số đồng nghiệp của cô đã có 1-2 con nhưng cô và chồng cho rằng sẽ khó có con và chăm sóc em bé khi điều hành công ty.
“Chính phủ đang khuyến khích chúng tôi sinh con. Nhưng hầu hết mọi người không có tiền để chăm sóc chúng. Có con thật đáng sợ”, cô nói với Insider.
Cả ba thế hệ thiên niên kỷ nói chuyện với Insider đều đang yêu nhau hoặc đã kết hôn nhưng cho biết họ chưa bao giờ nghĩ đến việc có con.
Số ca sinh ở Nhật Bản sẽ giảm xuống 1,26 ca/phụ nữ vào năm 2023 – mức thấp nhất trong 17 năm qua, theo Bộ Y tế nước này. Theo Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ sinh của Hoa Kỳ là 1,7 vào năm 2021, trong khi Hàn Quốc báo cáo tỷ lệ sinh thấp nhất thế giới là 0,78 trẻ em trên một phụ nữ vào năm 2022.
Tỷ lệ sinh giảm của Nhật Bản không phải là một xu hướng mới. Chính phủ đang cố gắng tăng tỷ lệ sinh bằng cách tạo môi trường thuận lợi cho phụ nữ sinh con và quay trở lại làm việc mà không phải chăm sóc con cái.
Tuy nhiên, millennials không muốn điều đó.