Ngày 24/8, Công ty Điện lực Tokyo (TEPCO) xác nhận đã bắt đầu quá trình xả nước thải từ nhà máy hạt nhân Fukushima. Đây là lượng nước bị nhiễm phóng xạ sau thảm họa động đất, sóng thần ở Nhật Bản năm 2011 nhưng đã được xử lý cẩn thận trước khi đưa ra Thái Bình Dương.
Theo Reuters, quá trình xả nước thải sẽ diễn ra trong nhiều thập kỷ. Tại thời điểm này, lượng nước thải ước tính khoảng 1,3 triệu tấn – đủ lấp đầy 500 bể bơi Olympic.
Động thái xả nước nhiễm phóng xạ của Nhật Bản đã trở thành chủ đề gây tranh cãi. Tuần trước, đài truyền hình Nhật Bản FNN đã thực hiện một cuộc khảo sát. Theo đó, 56% số người được hỏi cho biết họ ủng hộ phương án xả nước thải trong khi 37% số người được hỏi phản đối.
Phía Nhật khẳng định việc xả nước là an toàn. Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) đã phê duyệt kế hoạch này. Theo IAEA, Nhật Bản đã đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn quốc tế và cho biết “việc xả nước thải đã qua xử lý sẽ có tác động phóng xạ không đáng kể đối với con người và môi trường”.
Quy trình lọc và xử lý nước phóng xạ
Được biết, nước nhiễm phóng xạ sẽ được thu gom và lưu trữ trong hơn 1.000 bể chứa làm bằng vật liệu không gỉ. TEPCO – nhà điều hành nhà máy điện hạt nhân số 1 Fukushima – cho biết họ đã sử dụng Hệ thống xử lý chất lỏng tiên tiến (ALPS) để xử lý nước.
Tại đây, nước sẽ trải qua 5 công đoạn xử lý khác nhau dưới sự kiểm soát chặt chẽ. Theo Nature Journal, sau khi ALPS kết thúc, nồng độ hạt nhân phóng xạ 62/64 sẽ được đưa xuống mức an toàn dựa trên quy định của Nhật Bản năm 2022 đối với nước thải thải ra môi trường. Các quy định trên dựa trên khuyến nghị của Ủy ban Quốc tế về An toàn Bức xạ.
Đồ họa quá trình xử lý nước phóng xạ qua hệ thống ALPS (Ảnh: IAEA)
Tuy nhiên, quá trình trên không loại bỏ được carbon-14 và tritium. Trong đó, vấn đề triti nhận được sự quan tâm đặc biệt. Tritium – một dạng hydro phóng xạ – có thể gây ung thư. Theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), nước uống phải có ít hơn 10.000 becquerel tritium mỗi lít. Phải nói thêm rằng becquerel là đơn vị đo độ phóng xạ, tương đương với một đơn vị phóng xạ.
Vì vậy, nước sau khi xử lý cần được pha loãng thêm để giảm độ phóng xạ. Trước khi tiến hành quá trình pha loãng, nước được chuyển sang các bình chuyên dụng và được các chuyên gia tiến hành thử nghiệm trong tối đa 2 tháng.
Trong quá trình pha loãng, nước biển được bơm vào để pha loãng với chất lỏng đã xử lý trước đó. Tạp chí Nature cho biết tỷ lệ nước đã qua xử lý so với nước biển sẽ nhỏ hơn 1 trên 100. Trong khi đó, TEPCO tính toán nước sẽ bị pha loãng ít nhất 350 lần.
Phía Nhật Bản khẳng định nước thải thải ra Thái Bình Dương có nồng độ tritium dưới 1.500 becquerel/lít. Ở lần xả đầu tiên vào ngày 24/8, TEPCO cho biết nước có nồng độ tritium chỉ 190 becquerel/lít.
Trước đó, TEPCO cho biết họ cũng đã tiến hành thử nghiệm sinh vật biển sống trong nước biển có chứa nước đã qua xử lý. “Chúng tôi xác nhận rằng nồng độ tritium trong sinh vật biển đạt đến trạng thái cân bằng sau một thời gian thử nghiệm. Lượng tritium này không vượt quá nồng độ của sinh vật trong môi trường sống bình thường”.
Bất chấp lo ngại về việc xả nước chứa triti ra Thái Bình Dương, phía Nhật Bản khẳng định các nhà máy điện hạt nhân trên thế giới xả nước chứa triti ra môi trường.
Jim Smith, nhà khoa học môi trường tại Đại học Portsmouth (Anh), cho rằng nguy cơ từ lượng nước đã qua xử lý thải ra có thể không đáng kể. Smith nói: “Tôi luôn do dự khi nói số 0 nhưng tôi nghĩ (rủi ro) gần bằng 0. Hòn đảo gần nhất ở Thái Bình Dương cách đó khoảng 2.000 km”.
Nguồn: Reuters, Tạp chí Tự nhiên, Bloomberg