Nhà Thanh có thể coi là sự kết thúc của chế độ phong kiến kéo dài hơn 2.000 năm ở Trung Quốc, đồng thời cũng là triều đại được các tác phẩm điện ảnh, truyền hình hiện đại yêu thích nhất, đặc biệt là những câu chuyện xoay quanh hậu cung. các phi tần và Hoàng đế.
Nhưng chúng ta cũng nên biết rằng nhà Thanh là một chế độ thuộc về người Mãn Châu ở Trung Quốc chứ không phải người Hán. Hoàng đế của tộc Mãn Châu nhưng hậu cung không chỉ có đàn bà Mãn Châu mà còn có rất nhiều người Hán.
Vì vậy một câu hỏi được đặt ra, hậu cung nhà Thanh có nhiều thê thiếp như vậy, làm sao có thể phân biệt được ai là người Mãn, ai là người Hán? Trên thực tế, nếu để ý kỹ, có hai điểm tạo nên sự khác biệt giữa các phi tần của hai dân tộc này:
1. Tai
Người Mãn có nguồn gốc từ người Jurchen và phong tục của họ rất khác với người Hán. Khi sinh ra, người Mãn Châu được đeo ba chiếc khuyên ở cả hai tai. Đeo khuyên tai đã trở thành phong tục đặc trưng của họ. Hơn nữa, việc lựa chọn chất liệu bông tai cũng rất đặc biệt, bao gồm vàng, bạc, ngọc bích, cộng thêm tay nghề tinh xảo, hình dáng đa dạng, một tai thậm chí có thể đeo 4-5 chiếc khuyên tai.
Chất liệu của bông tai càng tốt thì địa vị và địa vị càng cao. Hầu hết những chiếc khuyên tai mà phụ nữ Mãn Châu bình thường đeo đều được làm bằng đồng. Vì vậy, không cần kiểm tra xem đối phương thuộc dân tộc nào, chỉ cần nhìn vào số lượng bông tai cũng có thể đại khái đoán được danh tính của một người phụ nữ sống thời nhà Thanh.
Người Hán không có thói quen này. Ngay cả khi họ đeo khuyên tai, hầu hết mọi người đều có một tai và một lỗ. Từ điểm này người ta có thể phân biệt được sự khác biệt giữa phụ nữ Mãn Châu và phụ nữ Hán.
Điều đáng nói là sau khi người Mãn Châu thống trị thế giới Trung Hoa lúc bấy giờ, họ duy trì phong tục này, phong tục đeo khuyên tai được đưa vào hệ thống quản lý và phụ nữ Mãn Châu phải tuân theo. “Một tai, ba khuyên” đang dần trở thành quy luật!
2 feet
Nhìn vào bàn chân có thể phân biệt được phụ nữ Hán và Mãn Châu.
Chúng ta đều biết người Mãn Châu đã chinh phục thế giới lúc bấy giờ bằng môn “ngựa bắn cung”. Xuất thân từ tộc Nữ Chân nổi tiếng, cả nam lẫn nữ đều giỏi cưỡi ngựa. Tất nhiên, việc thực hành “ba tấc sen vàng” không được thực hành, vì bó chân ảnh hưởng đến các hoạt động mạnh như cưỡi ngựa, bắn cung và săn bắn.
Người Hán thì khác! Kể từ thời Nam Tống, “bông sen vàng ba tấc” đã trở thành phong tục của phụ nữ. Người ta thời đó tin rằng phụ nữ có bàn chân nhỏ thì duyên dáng và xinh đẹp. Vì vậy, phụ nữ Hán Trung Quốc tập tục bó chân từ khi còn nhỏ để ngăn chặn sự phát triển của bàn chân. Phong tục này tiếp tục cho đến thời nhà Thanh.
Sau này, Hoàng hậu Hiếu Trang của nhà Thanh từng ra chiếu chỉ: Cấm phụ nữ bó chân. Ai bị trói chân mà còn dám vào cung sẽ bị chặt đầu. Năm Thuận Trị thứ hai, ông ra chiếu cấm bó chân. Năm Khang Hi thứ nhất, hoàng đế ban hành một mệnh lệnh rất nghiêm khắc: Kẻ nào phạm tội sẽ bị cha mẹ trừng phạt, nếu nhẹ sẽ bị đánh 40 roi, còn nếu nặng sẽ bị đày ải vì tội ác. 10 năm.
Nhưng tục bó chân đã có từ rất lâu nhưng không có nghĩa là nó sẽ dừng lại. Mặc dù giai cấp thống trị lúc bấy giờ đã nhiều lần ra lệnh không cho phép bó chân nhưng người dân vẫn tiếp tục thực hiện. Thậm chí sau này, phụ nữ Mãn Châu còn bị ảnh hưởng bởi tục bó chân.
Nguồn: Sohu