Linh dương Eland là động vật lớn. Mặc dù chiều cao tính đến vai của chúng chỉ dưới 2m nhưng chúng có thể nặng tới hơn 1 tấn.
Linh dương Eland được coi là loài linh dương lớn nhất còn tồn tại trên hành tinh của chúng ta . Cái tên “eland” xuất phát từ tiếng Hà Lan có nghĩa là “nai sừng tấm” và sự so sánh là một sự so sánh công bằng. Mặc dù nai sừng tấm cao hơn một chút nhưng linh dương lớn hơn và hai loài có khối lượng gần như nhau.
Linh dương sừng thẳng thuộc bộ linh dương sừng xoắn ốc (bao gồm Tragelophini, cùng với kudu, nyala và linh dương bụi rậm) và là thành viên duy nhất của chi Taurotragus. Về mặt di truyền, chúng có quan hệ họ hàng gần gũi với loài kudu lớn và trong một trường hợp, người ta quan sát thấy chúng giao phối với nhau, tạo ra một con lai vô sinh. Điều thú vị là linh dương Eland được cho là đã giao phối với gia súc tương đối thường xuyên ở Zimbabwe vào cuối những năm 1800 và đầu những năm 1900 – liên tục tạo ra những con lai vô sinh.
Tên khoa học của loài linh dương này là Taurotragus oryx. Trong đó “Tauros” là từ chỉ con bò đực, còn “tragos” có nghĩa là dê. Oryx xuất phát từ tiếng Anh trung cổ và tiếng Hy Lạp “orux”, có nghĩa là cái cuốc của thợ đá. Có khả năng “oryx” ám chỉ sừng của loài linh dương này. Eland được chia thành hai phân loài chính – Eland thông thường và Eland khổng lồ.
Màu sắc của loài linh dương này thay đổi tùy theo khu vực địa lý, nhưng nó thường có màu từ màu đất son đến màu rám nắng, đôi khi có các sọc trắng mờ chạy dọc hai bên sườn. Con đực có màu sẫm hơn, gần như xám đen khi chúng trở thành con trưởng thành. Con đực trưởng thành có diềm xếp nếp (giống như yếm của bò nhà), có thể đóng vai trò điều chỉnh nhiệt độ.
Đàn Eland đôi khi có thể lên tới 500 cá thể. Mặc dù có số lượng lớn nhưng chúng không có tính lãnh thổ hay hung dữ, thậm chí đối với con đực trong mùa sinh sản. Loài vật này có xu hướng đi lang thang từ nơi này sang nơi khác thay vì chiếm giữ một vị trí duy nhất cho riêng mình.
Trên thực tế, có hai phân loài được công nhận của linh dương Eland : linh dương thông thường và linh dương khổng lồ (còn được gọi là linh dương Lord Derby ). Như người ta có thể đoán, linh dương khổng lồ trung bình lớn hơn một chút so với linh dương thông thường. Tuy nhiên, sự khác biệt là không đáng kể và cái tên ám chỉ nhiều hơn đến kích thước sừng của phân loài linh dương khổng lồ.
Linh dương phổ biến xuất hiện trên các đồng bằng rộng mở khắp phần lớn miền nam châu Phi đến Ethiopia và các vùng khô cằn ở Nam Sudan. Linh dương khổng lồ được chia thành các nhóm phía Đông và phía Tây, nhóm trước ở Cameroon, Cộng hòa Trung Phi và Nam Sudan và nhóm sau ở giữa Mali và Senegal. Nhìn bề ngoài, rất khó để phân biệt hai phân loài này, nhưng linh dương khổng lồ có chân dài hơn một chút so với các phân loài khác.
Mặc dù chúng là loài linh dương lớn nhất thế giới nhưng chúng lại là bữa ăn lý tưởng cho nhiều loài săn mồi lớn. Một số loài săn mồi điển hình khiến chúng trở thành một phần trong chế độ ăn kiêng của chúng bao gồm sư tử, báo, linh cẩu đốm và chó hoang. Do kích thước lớn của loài này, những kẻ săn mồi duy nhất có thể bắt và ăn thịt con trưởng thành trên thực tế là báo hoa mai và linh cẩu đốm. Những kẻ săn mồi khác chủ yếu săn thú non.
Linh dương Eland là loài du mục (chúng không có lãnh thổ cố định) và sống trong bóng râm, thường nghỉ ngơi trong bóng râm trong những ngày nắng nóng. Linh dương này là một loài động vật xã hội có hệ thống phân cấp tuyến tính. Những con đực lớn tuổi hơn đôi khi sẽ tách khỏi đàn và sống một mình.
Linh dương Eland xuất hiện nhiều trong văn hóa dân gian của nhiều bộ lạc châu Phi, đặc biệt là người San ở miền nam châu Phi, những người thường xuyên đưa các bức tranh về loài động vật này vào tác phẩm nghệ thuật trên đá của họ. Có một số huyền thoại liên quan đến linh dương, chúng thường tượng trưng cho sự may mắn, tự do, lòng dũng cảm và sự hy sinh. Chúng cũng có mối liên hệ chặt chẽ với Mặt trời, có lẽ do màu sắc nhợt nhạt của chúng và đôi khi được nuôi trong các trang trại để lấy sữa và thịt.
Linh dương Eland là loài động vật ngoan ngoãn và dễ thuần hóa. Con cái sản xuất sữa có hàm lượng chất béo và protein cao hơn bò. Những yếu tố này, kết hợp với khả năng chống chịu bẩm sinh của chúng đối với nhiều bệnh bản địa và ký sinh trùng, khiến chúng trở thành vật nuôi hấp dẫn cho các trang trại hoặc hoạt động chăn nuôi quy mô nhỏ.
Chế độ ăn của linh dương chủ yếu bao gồm thực vật có hàm lượng protein cao. Thức ăn yêu thích của loài linh dương này là lá của các loài thực vật có hoa nhưng chúng không kén ăn. Họ thường tìm kiếm bất cứ thứ gì có sẵn, từ cây bụi, cỏ và hạt giống. Hiện nay trên thế giới có 136.000 cá thể linh dương và chúng chủ yếu được tìm thấy ở Châu Phi. Quần thể ổn định và IUCN đã chỉ định tình trạng bảo tồn “ít quan tâm”. Tuổi thọ trung bình của linh dương là 15-20 năm. Trong điều kiện nuôi nhốt, một số hồ sơ cho thấy chúng có thể sống thoải mái tới 25 năm.
- Video: “Ống đen” khổng lồ bất ngờ lao lên từ mặt nước, giết chết linh dương trong chớp mắt
- Video: Bị truy đuổi, linh dương dìm chết sư tử, sặc nước trong trận hải chiến
- Xoay chân để “quay vô lăng”, linh dương biến sư tử thành trò cười