Khả năng sống sót khó có thể xảy ra của Koepcke đã trở thành chủ đề của nhiều đồn đoán.
Lúc đó là 6 giờ chiều ngày 24 tháng 12 năm 1971. Juliane Koepcke, 17 tuổi và mẹ cô, Maria von Mikulicz Radecki, một nhà động vật học người Đức, cùng 90 hành khách lên chiếc máy bay cánh quạt bốn động cơ Lockheed Electra. Số 508 của Lansa Airlines, Peru, bay từ Lima, thủ đô Peru đến thành phố Pucallpa nằm trong rừng nhiệt đới Amazon.
25 phút sau, máy bay bị sét đánh. Nó rơi xuống đất, vỡ tan tành. Chỉ có Juliane Koepcke sống sót trong điều kiện kinh hoàng…
Chuyến bay định mệnh
Lúc 18h20 ngày 24/12/1971, chiếc máy bay bốn động cơ cánh quạt Lockheed Electra số hiệu 508 của hãng hàng không Lansa Airlines, Peru với 92 hành khách và 5 thành viên phi hành đoàn cất cánh từ sân bay Lima. . Juliane Koepcke nhớ lại: ” Tôi biết bay với Lansa Airlines sẽ không an toàn lắm vì trước đó họ đã gặp hai vụ tai nạn hàng không. Nhưng vì tôi nóng lòng muốn gặp bố vào đêm Giáng sinh và vì không còn chuyến bay nào khác nữa.” , mẹ con tôi vẫn quyết định đi…”.
Juliane Koepcke và cha cô nhận bằng tốt nghiệp trung học, nửa tháng trước vụ tai nạn máy bay.
Sinh ngày 10 tháng 10 năm 1954 tại Lima, Peru, Juliane Koepcke là con gái của Hans-Wilhelm Koepcke và Maria von Mikulicz Radecki, cả hai đều là nhà động vật học người Đức. Họ đến Peru để khảo sát vòng đời và thói quen sinh sống của động vật hoang dã trong rừng mưa nhiệt đới.
Hai tuần trước khi máy bay Lockheed Electra 508 gặp nạn, cha của Juliane Koepcke đang gắn chip theo dõi cho vài con vượn cáo tại cơ sở nghiên cứu của ông ở thành phố Pucallpa, Peru, nằm trong rừng Amazon, khi cô vừa tốt nghiệp trung học. Kế hoạch của Juliane Koepcke là theo truyền thống gia đình, cô cũng sẽ trở thành một nhà động vật học.
20 phút đầu tiên của chuyến bay, mọi chuyện diễn ra bình thường nhưng đến 16h45, chiếc Lockheed Electra gặp phải giông bão lớn. Juliane Koepcke kể lại: “Bỗng nhiên, xung quanh chúng tôi là một dải mây đen kéo dài vô tận và trong dải mây đen đó, những tia sáng xanh lục liên tục lóe lên. Ngồi cạnh tôi, mặt mẹ tôi trắng bệch vì máy bay rung chuyển khủng khiếp, nhất là khi có một số hành lý. chẳng hạn như vali, túi xách, bưu kiện, trái cây và thậm chí cả bánh Giáng sinh rơi từ ngăn trên xuống. Có hành khách khóc lóc, có người cầu nguyện và có người la hét hoảng loạn…”.
10 phút sau, qua cửa kính, Juliane Koepcke nhìn thấy một tia sét đánh vào động cơ nằm bên ngoài cánh trái máy bay. Cô kể: “ Mẹ nắm chặt vai tôi. Bà nói: “Chết rồi, chết rồi con ạ”. Đó cũng là câu cuối cùng tôi nghe được từ mẹ”.
Sét đánh vào động cơ, cánh trái của chiếc Lockheed Electra bốc cháy. Vài giây sau, nó rơi xuống đất từ độ cao 3.200 mét. Thân máy bay bị vỡ thành nhiều mảnh, nằm rải rác trên diện tích khoảng 1km2. Cảm giác cuối cùng của Juliane Koepcke lúc đó là: “Gió rít bên tai và tôi chẳng còn biết gì nữa”.
Tồn tại trong nỗi kinh hoàng
9 giờ sáng hôm sau, Juliane Koepcke mở mắt. Điều đầu tiên cô nhận ra là mình đã bất tỉnh hơn 12 tiếng dựa trên chiếc đồng hồ trên cổ tay. Trong tư thế nằm sấp trên mặt đất, Juliane Koepcke vẫn được cố định vào ghế bằng dây an toàn buộc quanh bụng. Nhờ chiếc ghế và sợi dây này mà cô đã sống sót.
Juliane Koepcke đi từ bệnh viện thành phố Pucallpa ra sân bay để trở về Đức.
Và Juliane Koepcke phải mất gần 15 phút mới tháo được ổ khóa trên sợi dây. Cô kể: “Tay trái của tôi không nhấc lên được vì xương quai xanh bị gãy, tay phải có vết thương lớn. Chân tôi cũng có một số vết thương. Mắt phải của tôi sưng tấy, kính đã bị vứt đi nên mọi thứ tôi nhìn thấy đều không còn gì nữa. mờ.”
Bò ra khỏi ghế, Juliane Koepcke cố gắng hét gọi mẹ. Xung quanh cô là những xác chết còn nguyên vẹn. Cảm xúc của Juliane Koepcke gần như tê liệt vì đây là lần đầu tiên cô chứng kiến nhiều người chết đến vậy. Cô nghĩ mẹ mình có thể là một trong số họ, nhưng khi dùng gậy chọc vào cơ thể một người phụ nữ, cô thấy móng chân của người này sơn màu đỏ. “Tôi ngay lập tức cảm thấy nhẹ nhõm vì mẹ tôi không bao giờ sơn móng tay hay móng chân, nhưng sau đó tôi cảm thấy tội lỗi vì suy nghĩ đó”, cô nói.
Đến trưa, Juliane Koepcke tìm thấy mẹ với nhiều vết thương ở cổ, ngực và bụng, nằm cách nơi bà rơi khoảng 300 mét. Cô nói: “Lúc đó tôi biết trên máy bay chỉ còn lại mình tôi. Dựa vào thời gian bay, tôi đoán mình chỉ cách thành phố Pucallpa – nơi đặt trạm nghiên cứu của bố tôi khoảng 50km. Mong các đội cứu hộ sẽ nhanh chóng đến nơi, nhưng khi nhìn quanh, tôi thấy nơi máy bay rơi là một khu rừng rậm rạp, với những tán cây lớn đan xen nhau, che khuất ánh nắng còn sót lại. Đất và các lớp lá thấp tạo thành một mê cung phức tạp. Vì vậy, tôi phải tự cứu mình trước khi được cứu…”.
Đến chiều muộn, Juliane Koepcke thu thập được vài chai nước, một gói 50 viên kẹo, vài quả táo và những miếng bánh Giáng sinh bị vỡ. Đến đêm, cô bò vào một mảnh máy bay có hình dạng giống mai rùa. Cô kể: “Khi máy bay rơi, tôi chỉ mặc váy ngắn và áo phông cộc tay nên không ngủ được vì quá lạnh và vì muỗi, côn trùng liên tục bám vào các vết thương hở trên người. da, trên tứ chi của tôi.”
Sáng hôm sau, Juliane Koepcke quyết định tìm đường ra khỏi rừng. Ngoài việc bị mất kính, Juliane Koepcke còn bị mất một chiếc giày nên phải lấy một mảnh áo khoác của nạn nhân buộc vào chân. Với chiếc áo phông cũng của nạn nhân, Juliane Koepcke buộc nó lại với nhau tạo thành một chiếc túi, đựng số thức ăn thu thập được. Dùng thân cây khô làm gậy, Juliane Koepcke dò dẫm từng bước cho đến khi tới một con suối nhỏ, nơi có 3 chiếc ghế và 3 hành khách nằm úp mặt xuống bùn.
Juliane Koepcke từng nói: “Có lần tôi nghe cha tôi nói: “Nếu con bị lạc trong rừng và tìm thấy một con suối, hãy đi theo nó. Suối nhỏ sẽ dẫn đến suối lớn và suối lớn sẽ chảy vào sông, nơi luôn có người dân sinh sống hai bên “nên tôi quyết định đi theo suối”.
Trong 5 ngày tiếp theo, Juliane Koepcke nhiều lần nghe thấy tiếng máy bay trên đầu nhưng cô không thể nhìn thấy vì rừng mưa nhiệt đới quá dày đặc và đội cứu hộ không thể phát hiện ra vị trí chiếc Lockheed Electra 508 bị rơi. Nhiều lần cô phải đối mặt với rắn độc và có lần cô phải đi xa khỏi con suối vì nhìn thấy vài con cá sấu đang nằm há miệng chờ mồi. Điều kinh hoàng nhất là vết thương trên cánh tay phải của cô bắt đầu có giòi, những con giòi nhỏ màu trắng, chen chúc nhau trong một lỗ hở to bằng đồng xu.
Năm 1980, Juliane Koepcke quay lại thăm hiện trường vụ tai nạn máy bay.
Hơn nữa, mùi hôi của vết thương đã thu hút ruồi. Juliane Koepcke cho biết: “Mặc dù tôi đã dùng một mảnh vải che lại nhưng ruồi vẫn bám vào. Tôi cũng thử ngâm cánh tay mình vào nước suối suốt một giờ với hy vọng giòi sẽ bò ra ngoài nhưng chúng cứ chui sâu hơn”.
Thoát chết
Vào ngày thứ 9 sau khi rời khỏi đống đổ nát của chiếc máy bay Lockheed Electra 508, Juliane Koepcke đã tới được giao lộ giữa một con suối và một con sông. Ở đó, cô nhìn thấy một chiếc thuyền gỗ nhỏ có động cơ nhưng không có người, buộc vào một thân cây ven bờ.
Đợi đến hết ngày mà vẫn không thấy ai, Juliane Koepcke nghĩ đến việc dùng chiếc thuyền này xuôi dòng với hy vọng gặp được một ngôi làng nào đó. Tuy nhiên, sức khỏe của cô suy kiệt đến mức không những không kéo được sợi dây dùng để khởi động máy mà thậm chí còn không thể mở được sợi dây buộc thuyền vào thân cây.
“Tôi nằm ngay trước mũi thuyền để có người đi ngang qua có thể dễ dàng nhìn thấy”, cô nói. Trong giây lát, tôi chợt nhớ đến câu chuyện bố tôi từng dùng dầu hỏa để lau vết thương cho con chó khi nó bị nhiễm trùng. Cố gắng hết sức, tôi bò tới chỗ động cơ rồi dùng mảnh vải mở nắp bình xăng, nhúng vào rồi bóp từng giọt xăng lên vết thương…”
Theo Juliane Koepcke, sau khi bóp xăng vào vết thương, cô đếm được 35 con giòi bò ra ngoài. Sau đó, sau khi được giải cứu, bệnh viện thành phố Pucallpa đã đón thêm 50 con vật nữa.
Sáng ngày 3/1/1972 – 10 ngày kể từ khi máy bay rơi, một nhóm thợ rừng đã phát hiện ra Juliane Koepcke nằm bất tỉnh trên một chiếc thuyền gỗ. Họ phải mất 7 giờ ngược dòng sông Amazon để đưa cô đến nhà máy chế biến gỗ ở quận Tournavista. Sau khi sơ cứu và xem lại giấy tờ trong ví, họ gọi điện cho bố cô. Tiếp theo, một chiếc trực thăng đã chuyển cô đến bệnh viện thành phố Pucallpa. Sau khi điều trị ở đó vài ngày, cha cô đưa cô trở về Đức.
Dựa trên chỉ dẫn của Juliane Koepcke, ngày 12/1/1972, đội cứu hộ đã tìm thấy địa điểm máy bay rơi. Tuy nhiên, phần lớn thi thể các nạn nhân đã bị chim và côn trùng ăn xác – trong đó có thi thể của Maria von Mikulicz-Radecki, mẹ của Juliane Koepcke. Điều tra cho thấy chiếc Lockheed Electra 508 bị sét đánh vào động cơ ngoài cùng bên trái, dẫn đến bình xăng ở cánh bị vỡ khiến máy bay bốc cháy.
Về phần Juliane Koepcke, cô sống sót nhờ dây an toàn giữ chặt cô vào ghế, cùng tán cây rừng rậm rạp phần nào làm giảm lực rơi. Ngoài ra, lớp lá rụng trên mặt đất tích tụ qua hàng chục năm giống như một tấm thảm, hấp thụ phần lớn lực tác động khi chiếc ghế và Juliane Koepcke ngã xuống.
Sau khi bình phục hoàn toàn, giống như cha mẹ mình, Juliane Koepcke theo học ngành Sinh học tại Đại học Kiel. Năm 1980, bà nhận bằng tiến sĩ tại Đại học Ludwig Maximilian, Đức. Juliane Koepcke sau đó tới Peru để nghiên cứu về loài dơi bản địa. Mãi đến năm 1997, Juliane Koepcke mới trở lại Đức và hiện tại, bà phụ trách Cục Bảo tồn Động vật Rừng nhiệt đới ở Munich, Bavaria.
Cô nói: “Trong nhiều năm, tôi liên tục gặp ác mộng. Khi tìm thấy mẹ, tôi không biết mẹ còn sống hay đã chết vì khi gọi điện cho mẹ, tôi không thấy bà phản ứng gì. Nếu cô ấy còn sống thì những ngày cuối đời của cô ấy sẽ rất khủng khiếp. Nỗi đau mất mẹ và của mọi người trên máy bay luôn ẩn sâu trong tiềm thức của tôi. Câu hỏi tại sao tôi sống sót vẫn ám ảnh tôi, và tôi biết nó sẽ theo tôi đến hết cuộc đời…”.
Năm 2000, đạo diễn Werner Herzog đã thực hiện bộ phim tài liệu mang tên “Đôi cánh hy vọng” kể về sự sống sót kỳ diệu của Juliane Koepcke sau một vụ tai nạn máy bay. Thật trùng hợp, Werner Herzog đã đặt vé trên chuyến bay định mệnh đó nhưng đến phút cuối vì bận công việc nên anh phải ở lại…
- Những vụ tai nạn máy bay kinh hoàng nhất trong lịch sử
- 13 vụ tai nạn máy bay bí ẩn nhất hành tinh