Bạn đang xem bài viết Dàn ý 12 câu đầu Trao Duyên trong Truyền Kiều (Nguyễn Du) tại Thcshoanghiep.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.
Trong Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, Tráo duyên là một trong những đề tài được đề cập đầy đủ và sâu sắc nhất. Tác giả đã vẽ lên bức tranh đầy màu sắc về một tình yêu đẹp, dù bi thương lắm nhưng cuối cùng vẫn được trọn vẹn yêu thương và hạnh phúc. Trong bài viết này, chúng ta hãy cùng nhau khám phá và phân tích những tình tiết, hành động và cảm xúc của những nhân vật trong Truyện Kiều liên quan đến đề tài tráo duyên. Mời các bạn cùng theo dõi!
Đoạn trích Trao Duyên gồm 34 câu (từ câu 723 – 756) trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đây là đoạn thơ mở đầu nói về cuộc đời lưu lạc, đau khổ của Thúy Kiều. Ở đoạn trích này, Thúy Kiều muốn nhờ Thúy Vân trả nghĩa tình cho Kim Trọng còn bản thân mình thì bán hoa để chuộc thân cho cha. Và dưới đây là dàn ý 12 câu đầu Trao Duyên, dựa theo dàn ý này bạn sẽ có một bài phân tích đầy đủ, chi tiết nhất về số phận của Thúy Kiều.
Lời đoạn trích Trao Duyên trong Truyện Kiều
Cùng điểm qua đoạn trích Trao Duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Qua đó chúng ta sẽ cùng lập dàn ý và phân tích từ câu thơ một trong đoạn trích nhé.
Trao duyên
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Mẫu 1: Dàn ý 12 câu đầu Trao Duyên
1. Mở bài
Giới thiệu sơ nét về tác giải Nguyễn Du: năm sinh, quê quán, tiểu sử cuộc đời, sự nghiệp văn chương của tác giả
Khát quát nhanh về bối cảnh ra đời của đoạn trích Trao Duyên
2. Thân bài
Ở thân bài này, chúng ta sẽ phân tích từng chi tiết trong mỗi câu thơ trong đoạn trích Trao Duyên:
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
=> 12 câu thơ đầu của đoạn trích Trao Duyên ý nói lên sự nhờ vã của Thúy Kiều. Cô nàng muốn Thúy Vân (em Thúy Kiều) kết hôn với Kim Trong người mình yêu thương. Còn riêng bản thân mình thì nàng bán thân để lấy tiền chuộc thân cho cha để báo hiếu.
Chỉ với 12 câu thơ ngắn gọn đã minh chứng được tính cách, nhân phẩm cao đẹp của một người con gái hiếu thảo. Sẵn sàng hi sinh tình yêu của mình để cứu lấy cha, cứu lấy gia đình của mình.
Trong đoạn trích tác giả đã sử dụng những từ ngữ khác thường (cậy, chịu lời, lạy, thưa…). Từ ngữ này sẽ tôn lên sự nhờ vã một phần nài ép Thúy Vân chấp nhận lời thỉnh cầu của mình để làm “tình chị duyên em”.
3. Kết bài
Nhắc lại cuộc đời bi ai của Thúy Kiều, một người con gái bất hạnh về tình yêu. Dù bản thân rất yêu Kim Trọng nhưng phải chấp nhận dường tình yêu ấy cho chính người em ruột của mình
Nêu cảm nhận của bản thân về tình yêu của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao Duyên.
Mẫu 2: Lập dàn ý về 12 câu thơ đầu bài Trao duyên
1. Mở bài
Giới thiệu đôi chút về tác giả Nguyễn Du
Nêu nội dung chính của 12 câu thơ đầu trong đoạn trích Trao Duyên
2. Thân bài
Hai câu thơ đầu:
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
=> Hai câu thơ ý nói về sự nhờ vã, giúp đỡ của Thúy Vân. Mong Thúy Vân nhận lời và thực hiện theo lời nhờ vã này. Tác giả Nguyễn Du đã dùng từ ngữ nhờ vã rất trang trọng “cậy”, “lạy”, “thưa”. Tuy là nhờ vã nhưng từ ngữ nói ra của Thúy Kiều dường như bắt buộc Thúy Vân phải chấp nhận. Tuyệt đối không được từ chối.
Sáu câu thơ tiếp theo
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
=> Nội dung của 6 câu thơ tiếp theo này chúng ta sẽ giải bày nguyên nhân tại sao Thúy Kiều phải nhường tình yêu của mình cho Thúy Vân. Mong Thúy Vân kết hôn với Kim Trọng và thay mình trả nợ tình nghĩa cho Kim Trọng.
Thúy Kiều mong Thúy Vân chấp nhận mà dành tình yêu chân thành đối xử tốt với Kim Trọng. Mong rằng 2 người sẽ sống hạnh phúc bên nhau.
Song đó nàng tâm sự với cô em gái mình về chuyện tình cảm của mình. Khi gặp Kim Trọng, cả hai đã nảy sinh tình cảm với nhau, cả hai đã thề non hẹn biển thế nhưng vì chữ hiếu buộc Thúy Kiều phải đành hi sinh chữ “tình” để làm tròn chữ “hiếu” với người cha của mình.
Bốn câu thơ cuối
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
=> 4 câu thơ cuối trong đoạn trích Trao Duyên của Thúy Kiều đưa ra vô cùng thuyết phục. Nàng nhắc đến tuổi trẻ của Thúy Vân và mong Thúy Vân dùng thanh xuân của mình đền đáp tình nghĩa cho Kim Trọng.
Dù nàng có “thịt nát xương tan” thì nàng vẫn vui vẻ ở nơi chín suối. Chỉ cần em gái hạnh phúc và người cha bình yên là đủ khiến Thúy Kiều hạnh phúc. Từ câu nói của Thúy Kiều khiến người em Thúy Vân vô cùng chua xót, đau đớn và không thể nào từ chối lời thỉnh cầu, nhờ vã của người chị Thúy Kiều được.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận sâu sắc của bản thân về 12 câu đầu của đoạn trích Trao Duyên trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)
Khẳng định lại tài năng của tác giả 1 lần nữa.
Xem thêm:
Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao Duyên ngắn nhất – Văn mẫu 10 hay nhất
Để tìm hiểu sâu hơn về giá trị tác phẩm Trao Duyên, mời các em tham khảo một số bài văn mẫu Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao Duyên ngắn nhất sau đây. Hi vọng với các bài văn mẫu đặc sắc này các em sẽ có thêm tài liệu, cách triển khai để hoàn thiện bài viết một cách tốt nhất!
Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao Duyên ngắn nhất – Bài mẫu 1
Nguyễn Du là một trong những đại thi hao xuất sắc của dân tộc. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn học đồ sộ với các tác phẩm bất hủ như: Thanh Hiên Thi tập; Nam Trung Tạp Ngâm; Bắc Hành Tạp Lục; Truyện Kiều;… Trong đó Truyện Kiều được xem là tác phẩm đỉnh cao để lại nhiều dấu ấn trong lòng độc giả. Với ngòi bút điêu luyện, xuất sắc Truyện Kiều đã tái hiện bi ai và chua xót cuộc đời người con gái trong xã hội phong kiến xưa. Một trong những đoạn trích làm nên thành công đó của Truyện Kiều đó là đoạn trích Trao Duyên với 12 câu thơ đầu thấm đẫm nước mắt nghĩa tình.
Đoạn trích trao duyên nằm trong phần hai của bộ thơ kể về chuỗi ngày biến động và lưu lạc của Thúy Kiều. Mười hai câu thơ đầu chính là mở màn cho chuỗi ngày đầy xót thương ấy, là tiếng lòng tha thiết thẳm sâu Thúy Kiều gửi cậy lại cho Thúy Vân, nhờ em viết tiếp câu chuyện tình yêu Kim Kiều.
Mở đầu bài thơ đã vẽ ra một trớ trêu nghịch cảnh đến nhói lòng:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi hãy thưa”
Thúy Kiều là chị ấy thế nhưng lại “cậy”, lại “thưa” với Thúy Vân? Những từ ngữ mang sắc thái trang trọng thường chỉ được dùng để đối đáp với bề trên thế nhưng ở đây Thúy Kiều lại dùng để ngỏ lời với em gái của mình. Phải chăng Thúy Kiều đang mang nặng một nỗi tâm tư tình cảm khó nói, một vấn đề nghiêm trọng muốn gửi gắm cho cô em em gái thân yêu. Cặp từ hô ứng: “cậy- chịu”; “Ngồi lên- thưa” thế hiện sự lô gic đầy khéo léo trong lời tâm tình của Thúy Kiều. Trước hết Thúy Kiều bày tỏ nỗi lòng mong muốn em sẽ giúp đỡ mình rồi sau đó mới thiết tha tỏ tường. Thúy Kiều vừa như khoản thiết mong chờ vừa như ấn định sự giúp đỡ từ em, rằng chỉ em mới có thể giúp được chị, chỉ có em mới khiến chị tin tưởng giao phó truyện quan trọng này.
Và rồi Thúy Kiều đã bộc bạch cái nỗi lòng đau đáu của mình với em:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
“Gánh tương tư” ám chỉ trách nhiệm tình cảm, một nghĩa vụ chăm sóc yêu thương. “đứt gánh tương tư” phải chăng là nói về chuyện tình duyên dang dơ; Thúy Kiều đang tự trách mình không làm tròn cái đạo lý nghĩa tình với người thương; đang tự dằn vặt khôn xiết cái trách nhiệm bản thân. Và rồi nàng khéo léo mượn điển tích “keo loan” để dãi bày nỗi lòng mong muốn thiết tha rằng Thúy Vân sẽ thay mình kết duyên với Kim Trọng, thay mình chăm sóc yêu thương chàng. Hai chữ “mặc em” thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối của Thúy Kiều khi đem chuyện tình kiếp cả đời giao phó lại cho em.
“Gánh tương tư” không chỉ là lời hứa xuông mà nó còn bao hàm biết bao nỗi nhọc nhằn, bao tình cảm đánh đổi. Thúy Kiều biết như thế sẽ là ép buộc em; sẽ làm khó em; biết rằng trong lòng em cũng đang dậy lên những cơn bão lòng băn khoăn, do dự nhất định. Chính vì thế Thúy Kiều đã dãi bày những lý do để thuyết phục Thúy Vân:
“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sòng gió bất kỳ,
Hiều tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”
Thúy Kiều nhớ lại những ký ức của một thời lãng mạn đã qua. “Kể từ khi” như mở ra một không gian dài rộng, mơ ước, hạnh phúc. “Khi ngày quạt ước’; “Khi đêm chén thề” ngày và đêm; quạt ước- chén thề, không gian thời gian như dài rộng ra, con người như đang say mê mải miết với tình yêu cháy bỏng. Mặt trời mặt trăng như đã chứng kiến cho câu chuyện tình yêu Kim Kiều, cho lời thề ước trăm năm hai người. Lời ước thề như khắc sâu và không gian, vào cảnh vật và trường tồn cùng năm tháng vĩnh cửu.
Tưởng rằng chuyện tình lãng mạn đầy thi vị ấy sẽ đi tới hồi kết tươi đẹp thế nhưng có ai hay sóng gió ập đến, gia đình kiểu phải chịu oan sai, vì muốn bảo vệ cha mẹ và em trai mà Kiều đành phụ Kim Trọng. Đứng giữa cân đo giữa đạo làm con và người mình thương Kiều đành xé lòng làm trọn chữ hiếu. Nàng đã hi sinh chữ tình để làm tròn chữ Hiếu, sống tròn với trách nhiệm người chị cả gia đình.
Kiều vỗ về Thúy Vân rằng em tuổi còn trẻ, sau này sẽ có nhiều thời gian để vun vén tình cảm và dẫu rằng chị với Kim Trọng đã từng có chuyện tình đẹp nhưng lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Tấm chân tình theo thời gian sẽ chắp cánh nên một mối nhân duyên, một cuộc sống hạnh phúc cho hai người.
Kiều cũng viện đến cả tình máu mủ ruột già để cậy nhờ ân tình Thúy Vân. Bởi Kim Trọng là người mà Kiều yêu nhất, chỉ khi giao cho Thúy Vân Kiều mới cảm thấy được an ủi và yên tâm phần nào. Và Kiều mong rằng em hãy vì chị chị em em nặng nghia tình mà viết nốt lời thề non hẹn biển với chàng Kim.
Thúy Kiều như đang chắt chiu ra từng nỗi đau xót sâu thắm để dãi bày cùng Thúy Vân và mong rằng Thúy Vân hãy hiểu cho nỗi lòng này mà đồng cảm, sẻ chia.
Tấm ân tình trời bề của Thúy Vân Thúy Kiều sẽ luôn khắc tạc ghi tâm:
“Chị dù thịt nát sương mòn
Ngậm cười chín suối, hãy còn thơm lây”
Thành ngữ “thịt nát sương mòn”; “ngậm cười chín suối” khiến ta liên tưởng đến cái chết, đến sự đớn đau. Phải chăng chính Kiều đã tiên liệu trước được bão giông sắp xảy đến với cuộc đời mình mà sắp xếp ổn thỏa mọi thứ. Ân tình ngày hôm nay Thúy Vân nhận lời với chị sẽ mãi được Thúy Kiều khắc ghi. Tiếng thơ như trút hết nỗi lòng trong lòng Thúy Kiều. Đối với nàng, việc Thúy Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng chính là niềm vui, niềm an ủi và mãn nguyện nhất đối với cuộc đời Kiều đời đời kiếp kiếp chẳng quên.
Nguyễn Du thật tài tình khi sử dụng thể thơ lục bát kết hợp với các điển tích và thành ngữ dân gia để bộc lộ tâm trạng Thúy Kiều. Một bức tranh với ngôn từ giản dị, gần gũi nhưng tạo được ấn tượng vô cùng mạnh trong lòng độc giả về hình tượng nhân vật. Phải chăng chính điều này đã làm nên sức lan tỏa và trường tồn của tác phẩm thơ Truyện Kiều.
Chỉ với 12 câu thơ Nguyễn Du như dựng lên sự éo le đầy bi ai của cuộc đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Qua đó đã lên án một xã hội thối nát, một xã hội mà sức mạnh đồng tiền đã dồn nén con người tới tận cùng nỗi đau mà chẳng thể làm sao để thoát ra, đầy tăm tối và mịt mù vô cùng.
Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao Duyên ngắn nhất – Bài mẫu 2
Nhà thơ Nguyễn Du là một đại thi hào của nước ta. Ông đã để lại nhiều bài thơ hay bất hủ vượt qua mọi sự cách trở của thời gian. Trong đó, Truyện Kiều là một tác phẩm vô cùng kiệt xuất của tác giả Nguyễn Du.
Trong đó, đoạn trích Trao duyên là một đoạn trích thể hiện tấm bi kịch trong lòng của nhân vật chính Thúy Kiều khi phải đấu tranh giữa bên hiếu, bên tình. Cuối cùng Thúy Kiều lựa chọn hy sinh thân mình để bảo vệ hạnh phúc cho gia đình chuộc cha và em trai ra khỏi chốn lao tù.
Đoạn trích Trao duyên nói lên sự bi kịch của người phụ nữ khi tình duyên dang dở. 12 câu thơ đầu trong đoạn trích Trao duyên đã khắc họa thành công sự đau thương trong lòng của Thúy Kiều.
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sòng gió bất kỳ,
Hiều tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Trong 12 câu thơ đầu trong đoạn trích Trao duyên này thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều khi làm chị nhưng lại phải nhờ vả cậy nhờ em mình. Những lời tâm sự rút gan rút ruột của Thúy Kiều cho thấy sự đau khổ của người con gái phải rời xa mối tình tâm đầu ý hợp của mình. Khi tình duyên dang dở Thúy Kiều quyết định từ bỏ tình yêu, từ bỏ Kim Trọng để bán mình chuộc cha.
Thúy Kiều thương cho Kim Trọng sợ chàng sau khi mãn tang chú quay lại tìm nàng thì biết tin nàng bặt vô âm tín sẽ đau buồn lắm. Thúy Kiều là người suy nghĩ sâu sắc nên nàng đã nhờ em gái của mình là Thúy Vân thay nàng chăm sóc an ủi Kim Trọng theo cách “Tình chị duyên em”
Trong câu thơ “Cậy em em có chịu lời, ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa” thể hiện sự thành khẩn của Thúy Kiều khi gửi trao tâm nguyện của mình lại cho cô em gái Thúy Vân. Thể hiện tâm trạng vô cùng đau khổ của cô với việc lựa chọn này.
Trong mỗi câu thơ Thúy Kiều như đứt từng khúc rút để nói lại với em gái của mình. Thúy Kiều đã dùng những từ ngữ vô cùng sâu sắc như “Giữa đường đứt gánh tương tư” thể hiện sự bất lực không còn con đường nào lựa chọn, nên buộc lòng cô phải nhờ cậy tới Thúy Vân.
Dù muốn trao duyên của mình cho cô em gái nhưng trong lòng Thúy Kiều đè nặng những đau đớn, tương tư trong lòng. Bởi những kỷ niệm yêu thương ngọt ngào vẫn còn khắc cốt ghi tâm trong lòng Thúy Kiều. Kim Trọng là người con trai mà Thúy Kiều thật lòng yêu thương, muốn trao gửi cả cuộc đời mình vào tay người con trai đó, cùng chàng đi tiếp chặng đường tương lai nhưng giờ phải lựa chọn từ bỏ trái tim nàng đau khổ như chết đi sống lại.
Trong 12 câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên thể hiện sự bất lực, bất khả kháng của người con gái Thúy Kiều khi mà sóng gió gia đình bất ngờ ập tới khiến gia đình cô gặp cảnh tai biến không hiểu nguyên do từ đâu. Trước người cha tuổi cao sức yếu và người em trai tình thân như thủ túc, Thúy Kiều là chị cả nàng không thể thấy cha và em mình bị giam cầm mà dửng dưng sống hạnh phúc bên người mình yêu, bỏ mặc sự sống chết của người thân.
Sự lựa chọn của Thúy Kiều cho thấy nàng là người vô cùng sâu sắc, hiếu thuận với cha mẹ, cũng là người có tình, biết lo lắng cho người khác, luôn đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để nghĩ cho người đó. Trong khi đó bản thân nàng tương lai như thế nào nàng cũng không rõ, con đường phía trước mù mịt, mịt mờ nhưng nàng cũng cam tâm tình nguyện ra đi vì người thân.
Trong những câu thơ tiếp theo
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề”
Thúy Kiều kể lại những kỷ niệm thời còn hẹn hò giữa nàng và Kim Trọng, mỗi câu thơ đều thể hiện sự tâm đầu ý hợp giữa hai người. Một mối tình trai tài gái sắc vô cùng đẹp đôi, xứng đôi vừa lứa. Nhưng vì sóng gió, tai biến gia đình mà Thúy Kiều buộc lòng phải từ bỏ.
Thúy Kiều mong Thúy Vân vì tình cảm chị em máu mủ mà nhận lời nhờ cậy của mình, chăm sóc Kim Trọng thay mình, yêu thương chàng tiếp tục cùng chàng sánh duyên thay cho mình. Điều này cho thấy sự tình nghĩa của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng là vô cùng sâu sắc.
Chỉ với 12 câu thơ nhưng tác giả Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều khi phải dứt tình ra đi, để giữ trọn chữ hiếu với gia đình, cứu những người thân của mình.
12 câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên cho người đọc thấy được bi kịch nghiệt ngã của người con gái tài sắc vẹn toàn như Thúy Kiều nhưng phải chịu đau khổ, trong cuộc sống.
Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao Duyên ngắn nhất – Bài mẫu 3
Khi phân tích 12 câu đầu bài Trao duyên của Nguyễn Du, điều để lại nhiều dư vị cho người đọc nhất có lẽ chính là những tâm tư, tâm trạng của nàng Kiều khi Trao duyên.
Lời nhờ cậy khó nói của Thúy Kiều
Khi phân tích 12 câu đầu bài Trao duyên, ta thấy qua hai câu thơ đầu, Nguyễn Du dường như đã để cho Thúy Kiều mở lời cùng em, có lẽ nàng đã phải lưỡng lự, đắn đo rất nhiều:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Thúy Kiều đắn đo, lưỡng lự như vậy cũng là điều dễ hiểu. Vì ngẫm thấy trước nay, dù là mối quan hệ chị em có thân tình, gần gũi đến mức độ nào đi chăng nữa thì việc nhờ cậy người khác giúp đỡ mình trong chuyện tình cảm cũng khó lòng mở lời mà không tránh khỏi sự ngượng ngùng, khó xử. Nhưng vì có một niềm tin tuyệt đối dành cho Thúy Vân nên Kiều đã quyết định “cậy em” và cũng bày tỏ sự khẩn thiết nên mới đưa ra một yêu cầu lạ thường là Vân hãy “ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.
Phân tích 12 câu đầu bài Trao duyên sẽ thấy yêu cầu của Kiều đã cho thấy nàng rất nghiêm túc và vấn đề Kiều sắp nói ra hẳn phải rất hệ trọng. Kiều biết việc nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng cũng sẽ ít nhiều khiến Thúy Vân cảm thấy bối rối nhưng vì nếu không nói ra lúc này thì có sẽ chẳng còn nhiều cơ hội để thổ lộ với em cho thật rõ ràng và rành mạch. Thế nên, nàng mới bày tỏ sự chân thành và thiết tha đến như vậy.
Kiều mong em có thể hiểu và thông cảm cho nàng. Hơn nữa, là người một nhà, Vân hiểu rất rõ những hoàn cảnh mà Kiều phải đối diện. Vân cũng là người cảm nhận được ý nghĩa thiêng liêng của tình yêu mà chị có. Vân biết chị yêu thương gia đình như thế nào và cũng dành tình cảm sâu đậm cho Kim Trọng biết bao nhiêu.
Biết Kiều chấp nhận hi sinh tình yêu để giúp đỡ gia đình, Vân cũng sẽ phần nào hiểu được Kiều đau khổ đến nhường nào. Chính vì những điều đó mà tất cả những cố gắng mà Kiều thể hiện niềm mong muốn Vân sẽ là ân nhân giúp Kiều hoàn thành tâm nguyện trước khi xa gia đình. Vân ắt hẳn sẽ chú tâm lắng nghe Kiều chia sẻ. Khi phân tích 12 câu đầu bài Trao duyên, ta thấy chính hành động và lời mở đầu rất khéo léo và chân thành của Kiều đã giúp Kiều có được sự tự tin hơn khi tiếp tục tâm sự với em về hoàn cảnh của mình:
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”
Giữa lúc tình yêu mà Kiều và Trọng đang được xây đắp với rất nhiều niềm tin và hi vọng về một tương lai đẹp đẽ thì sóng gió ập đến. Vì thế mà Kiều phải chấp nhận cảnh “đứt gánh tương tư”. Bao nhiêu hi vọng, bao nhiêu ước hẹn tươi đẹp cũng vì thế mà hóa thành khói mây. Nhưng Kiều không bao giờ muốn nó tan biến nên đã nhờ em “chắp mối”.
Mặc dù trong lời nói, Kiều nói “mặc em” chọn lựa có giúp mình hay không nhưng thực sự nàng mong mỏi em gật đầu đồng ý mong muốn của mình. Tình cảm lỡ làng như hoàn cảnh hiện tại, Kiều chắc chắn không bao giờ nghĩ đến, biến cố gia đình đối mặt, Kiều cũng không mong ai sẽ gánh vác thay.
Nhưng chuyện nàng không nghĩ đến lại xảy ra, Kiều vẫn không hối hận chuyện mình đã đứng ra hi sinh cho gia đình. Lúc này điều nàng cần nhất vẫn là mong Vân san sẻ với tâm tư trĩu nặng trên đôi vai mình. Đó là giúp nàng tiếp bước mối duyên tình dang dở.
Những hồi tưởng của Kiều về mối tình đẹp
Lời mở đầu khó nói rồi đã có thể được bày tỏ cùng em, Kiều tiếp tục chia sẻ với Vân những điểm mốc trong cuộc đời mà mình đã trải qua:
“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”
Trong tình yêu, một khi đã tin rằng đối phương là một nửa yêu thương của mình thì ai cũng muốn cùng họ có một tương lai tươi đẹp và một kết thúc đẹp đẽ. Kiều cũng không ngoại lệ khi có một tình yêu thật đẹp, tình cảm giữa nàng và chàng Kim đã đạt đến độ “ngày quạt ước”, “đêm chén thề”.
Ngay từ khi gặp gỡ thì cả Kiều và Trọng đều nhận thấy là giữa họ “tình trong như đã” dù “mặt ngoài còn e”. Thiện cảm dành cho đối phương ngày một lớn hơn để kết tinh thành tình yêu lứa đôi – một thứ tình cảm rất đỗi thiêng liêng và đáng quý trong đời. Cũng như những người đang hạnh phúc trong tình yêu đôi lứa, Thúy Kiều và Kim Trọng đã cùng nhau ước hẹn, thề nguyền được gắn bó cùng nhau đến cuối con đường duyên tình đẹp đẽ…
Tuy nhiên cuộc đời vốn có nhiều điều bất ngờ mà con người lại không có khả năng đoán biết trước được. Bản thân Kiều cũng rơi vào hoàn cảnh đó, chỉ có điều, “sóng gió” mà nàng đối diện lại đến quá thình lình, nhất là khi Kiều đang vừa bước vào ngưỡng cửa đầy mộng ước của tình yêu đầu đời. Bàn tay số mệnh đúng là đã phũ phàng với người con gái đầu lòng họ Vương ấy. Có đến trong mơ, nàng cũng không thể tưởng tượng nổi mình phải đứng trước sự lựa chọn giữa hiếu và tình.
Dĩ nhiên chọn cái nào thì Kiều cũng không đành lòng với điều còn lại. Đến cuối cùng, lấy đạo hiếu làm đầu, Kiều chấp nhận bỏ dở chuyện tình yêu để gia đình được yên ổn. Và khi phân tích 12 câu đầu bài Trao duyên, người đọc sẽ nhận thấy Kiều cũng rất đau xót khi phải giã từ mối tình như hoa như mộng của mình. Thế nên, nàng quyết định nhờ cậy em gái thay nàng nối duyên với chàng Kim. Có như vậy, tấm lòng hiếu thảo và ân tình sâu đậm của Kiều mới “hai bề vẹn hai”.
Những dấu mốc Thúy Kiều điểm qua cho thấy đôi khi con người không thể phản kháng trước sự chuyển vần của số phận. Mới đây thôi, gia đình nàng còn ấm êm hạnh phúc, nàng còn cùng chàng Kim thề nguyền ước hẹn nhưng giờ đây nàng phải bắt đầu những tháng ngày sống xa gia đình và xa cả người nàng hết mực thương yêu. Thế nhưng, chính những dấu mốc ấy lại cho ta thấy sự tinh thần trách nhiệm của Thúy Kiều đối với cả gia đình lẫn người yêu.
Những lý lẽ thuyết phục Vân nhận mối lương duyên
Cuối cùng, Kiều đã đưa ra những lý lẽ để có thể thuyết phục em gái chấp nhận lời nhờ cậy của mình:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Khi phân tích 12 câu đầu bài trao Duyên, ta thấy những gì cần tâm sự, tỏ bày, Kiều đã trút hết nỗi lòng để nói, để thổ lộ cùng em gái. Giờ phút ngắn ngủi còn lại, Kiều chỉ mong em hãy “xót tình máu mủ” mà chấp thuận tâm nguyện của Kiều đón nhận mối duyên với chàng Kim. Không những vậy, Kiều còn đem cả cái chết để khẳng định sự mãn nguyện, “dù thịt nát xương mòn” thì Kiều vẫn “ngậm cười chín suối”.
Phân tích 12 câu đầu bài Trao duyên, ta cũng thấy tuổi đời của Kiều không nhiều nhưng ở thời điểm đáng lẽ vẫn có thể sống yên bình trong tình thân và tình yêu thì Kiều lại phải hi sinh thân mình. Để rồi những tháng ngày tiếp theo, nàng cũng không chắc mình sẽ vui vẻ, hạnh phúc. Đau khổ đầu đời đó, Kiều chấp nhận mà không có một chút oán giận và dù về sau có đau khổ thế nào đi chăng nữa. Nếu Vân giúp nàng hoàn thành ý nguyện, Kiều cũng sẽ phần nào yên lòng hơn. Có lẽ đến đây, với những lời lẽ mà Kiều đã dùng hết ruột hết gan để thuyết phục em, Vân khó đành lòng mà làm Kiều thất vọng.
Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao Duyên ngắn nhất – Bài mẫu 4
Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Đoạn trích “Trao duyên” đã nói lên nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, cũng là phần mở đầu cho cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều. Và đặc sắc nhất có lẽ là 12 câu thơ đầu. Chỉ 12 câu nhưng sao như tiếng nấc uất nghẹn ngào.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ chân tình, thuần hậu để nói chuyện với Thúy Vân. Từ “cậy” được sử dụng thật đặc sắc, là “cậy” chứ không phải “nhờ”, người được “cậy” khó lòng từ chối. Thúy Kiều đã đặt hết niềm tin tưởng của mình vào Thúy Vân và Thúy Vân không thể thoái thác được và phải “chịu lời”. Kiều đã đặt Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không có người chị nào lại xưng hô với em mình bằng những từ ngữ tôn kính chỉ dùng với bề trên như “thưa, lạy”. Kiều muốn chuẩn bị tâm lí cho Vân để đón nhận một chuyện hệ trọng mà nàng chuẩn bị nhờ cậy em bởi nàng hiểu rằng việc mà nàng sắp nói ra đây là rất khó khăn với Vân và cũng là một việc rất tế nhị:
“Hở môi ra những thẹn thùng
Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai”
Từng từ được thốt ra đều được nhân vật cân nhắc kĩ càng, chọn lọc, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ rất “đắt”. Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du muốn diễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ “đơm hoa kết trái”, mối nhân duyên mà nàng mong ước sẽ được lâu bền lại cho Thúy Vân:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
“Gánh tương tư” là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị nhưng giờ giữa đường lại “đứt gánh” còn đâu. Tơ duyên là của chị, khi đến với em nó đã là “tơ từa”. Chị hiểu em tuổi còn trẻ có thể chưa biết đến tình yêu. Đáng lẽ em còn được hưởng bao mật ngọt của tình yêu nhưng xin em hãy xót người chị bạc mệnh này mà đáp nghĩa cùng chàng Kim. Ôi! Lời của Kiều thật thống thiết. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên. Cái ray rứt của Kiều là ray rứt cho Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa” của mình. Từ “mặc” sử dụng ở đây không phải là mặc kệ em, mặc cho ra sao thì ra mà có nghĩa là Kiều muốn phó thác, giao phó trách nhiệm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự cậy nhờ của mình nơi Vân.
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề”
Từ “khi” được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh tình cảm mà Kiều dành cho Kim Trọng nào đâu phải tình cảm một sớm một chiều. Những kỉ niệm đẹp giữa nàng và Kim Trọng như sống lại trong những câu thơ “ngày hẹn ước, đêm chén thề”. Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui nhưng cũng nghe như tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, những kỉ niệm đẹp ấy sẽ kết thúc, chỉ còn lại chuỗi ngày bi thảm tiếp sau.
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
“Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, Kiều phải bán mình chuộc cha và em. Những biến cố xảy ra liên tục, đẩy Kiều vào chỗ bế tắc, là người chị cả, Kiều phải hi sinh bản thân mình để gia đình được đoàn tụ, êm ấm, bởi lẽ: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”.
Chữ Hiếu là một phạm trù đạo đức trong đạo Nho, vì hiếu con người ta phải dẹp bỏ tình riêng, là một quan niệm đạo đức phổ biến của người xưa. Và Kiều cũng thế, nàng không bao giờ cho phép mình trở thành người con bất hiếu. Nàng đã chôn vùi tình cảm riêng tư để báo hiếu cho cha mẹ:
“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”
Khi đã quyết định bán thân chuộc cha và em, Kiều lại nhớ đến Kim Trọng, nàng tự thấy mình là người phản bội, không xứng đáng với chàng:
“Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa”
Ở đời, phàm, người ta thường hi sinh tất cả mọi thứ vì tình yêu. Là người ai chẳng khát khao được gắn bó với người mình yêu. Và ở người con gái đa sầu đa cảm như Kiều thì khát vọng ấy lại càng mạnh mẽ gấp bội, vì tình yêu nàng đã từng vượt qua cả lễ giáo phong kiến khắt khe nhất để “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Vậy mà giờ Kiều lại đành lòng vứt bỏ, thật đau đớn xiết bao! Nhưng vì:
“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”
Có lẽ chỉ có những người con gái mang trong mình trái tim bao dung như Thuý Kiều mới đủ sức mạnh để làm những việc tưởng chừng khó khăn nhất như thế!
Sợ chưa thuyết phục được em, Kiều đã dùng hết lý lẽ, sự tỉnh táo nhất của lí trí để trải lòng cùng em:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”
Đúng vậy, Thúy Vân còn trẻ, còn nhiều thời gian vun đắp cho tình cảm riêng tư nên xin hãy nhận lời chị kết duyên cùng chàng Kim. Để thêm thuyết phục và Vân không thể chối từ, Kiều đã đem “tình máu mủ” ra để cầu xin Vân. “Máu chảy ruột mềm” còn gì thiêng liêng hơn tình chị em gắn bó, ruột thịt. Em hãy giúp chị thay “lời nước non” cùng chàng. Kiều cũng đã đặt mình vào địa vị của Vân, phải kết duyên cùng người mình không quen biết, mà còn là người yêu của chị mình, ta có thể cảm nhận ở đây Thúy Vân là người thiệt thòi nhất…
Tuổi của Kiều và Vân xấp xỉ nhau “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” thế nhưng đối với Kiều giờ đây, tuổi xuân của nàng đã kết thúc. Khoảng thời gian xuân xanh đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng nay chỉ còn là những kỉ niệm mà không có tương lai. “Trao duyên” cho em, nghe thật kì lạ nhưng trong hoàn cảnh của Kim,Vân, Kiều thì đây là một việc không khó hiểu trong xã hội phong kiến ngày xưa. Những dòng nước mắt không thể chảy ra nhưng cứ âm ỉ, phảng phất trong từng câu, từng chữ… Nỗi đau đớn đến xé lòng nhưng vẫn phải dằn xuống, kìm nén để nói những lời trao duyên cho em. Thật đau xót thay! Chữ· Tình đối với Kiều vô cùng quan trọng, thế nhưng nàng lại từ bỏ nó để làm tròn chữ Hiếu. Mất đi tình yêu đối với nàng là mất đi tất cả. Nói đến đây Kiều tưởng như cuộc đời mình đã kết thúc, không còn gì để luyến tiếc, níu giữ:
“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Bản thân phải hi sinh, Kiều không đắn đo thiệt hơn, nhưng khi nhờ cậy đến em gái thì đó là một cái ơn lớn· đối với nàng. Cho nên lời nhờ cậy của Kiều thật thiết tha, lời cảm tạ của Kiều thật sâu sắc, cảm động. Xét về ngôn từ thì lời nói của Kiều khẩn thiết mà vẫn đúng mực, kêu nài mà vẫn chí nghĩa chí tình. Nhờ cậy thì vịn đến tình máu mủ ruột thịt. Cảm tạ thì đề cao ơn nghĩa của Thúy Vân và nói đến sự bạc mệnh của mình. Kiều quả thật là người “sắc sảo mặn mà”.
Kiều đã hi sinh tất cả, kể cả cuộc đời nàng đang độ xuân xanh vì gia đình. Thuý Vân dù có vô tư đến đâu cũng có thể hiểu nỗi đau và sự hi sinh quá lớn của chị nên chắc chắn rằng nàng không thể khước từ và chỉ ngậm ngùi đồng ý nhận duyên từ chị. Có lẽ vì thế nên ngay từ đầu chúng ta không nghe một lời đối thoại nào của Vân mà chỉ nghe những lời thuyết phục, van nài và bộc bạch nơi Kiều. Vân đã chấp thuận.
Khi trao duyên cho em xong, Kiều đã nghĩ đến cái chết: “thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối”. Cuộc đời nàng sau khi báo đáp ơn nghĩa sinh thành thì coi như chấm dứt. bởi lẽ mất đi tình yêu là nàng đã mất tất cả, mất hi vọng, mất định hướng, linh hồn nàng như tê dại và đông cứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời đầy tăm tối ở ngày mai.
Xã hội phong kiến thối nát đã chia rẽ tình yêu đôi lứa, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, chà đạp lên số phận của người phụ nữ, những con người xinh đẹp, tài hoa.
“Đau đớn thay phận đàn bà
Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân!”
kiếp số của họ:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta nhận thấy Nguyễn Du thật sự là một bậc đại tài trong việc thấu hiểu từng khía cạnh tinh tế nhất của tâm can con người. Chính sự thấu hiểu sâu sắc ấy cùng với nghệ thuật dùng từ điêu luyện, đã khiến tác phẩm của Nguyễn Du· tồn tại như một giá trị vĩnh cửu vượt qua tất cả thử thách khắt khe của thời gian, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng đối tượng tiếp nhận, đã khiến cho triệu vạn người phải rơi nước mắt khóc than cho số phận nàng Kiều:
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)
—/—
Trên đây là một số bài văn mẫu Cảm nhận 12 câu đầu bài Trao Duyên ngắn nhất mà THPT Trịnh Hoài Đức đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!
Phân tích 12 câu đầu đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)
Tài liệu hướng dẫn phân tích Trao duyên 12 câu đầu với gợi ý chi tiết cách làm, lập dàn ý và tham khảo 3 bài văn mẫu hay phân tích 12 câu đầu đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều (Nguyễn Du).
I. Hướng dẫn làm bài phân tích 12 câu đầu đoạn trích Trao duyên
1. Phân tích yêu cầu đề bài
– Yêu cầu về nội dung: phân tích nội dung và nghệ thuật của 12 câu thơ đầu bài Trao duyên của Truyện Kiều (Nguyễn Du)
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: từ ngữ, hình ảnh, chi tiết… trong 12 câu đầu đoạn trích Trao duyên từ “Cậy em em có chịu lời… hãy còn thơm lây.”
– Phương pháp lập luận chính: Phân tích.
2. Luận điểm 12 câu đầu Trao duyên
Khi tìm hiểu và phân tích bài thơ Trao duyên ta thấy có hai luận điểm quan trọng, cơ bản trong nội dung 12 câu đầu đó là:
– Luận điểm 1: Lời nhờ cậy của Thúy Kiều (2 câu đầu)
– Luận điểm 2: Những lí lẽ trao duyên của Kiều (10 câu sau)
3. Sơ đồ tư duy phân tích 12 câu đầu Trao duyên
Chi tiết sơ đồ tư duy nội dung 12 câu đầu đoạn trích Trao duyên
II. Lập dàn ý chi tiết phân tích 12 câu đầu bài Trao duyên
1. Mở bài 12 câu đầu Trao duyên
– Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm và đoạn trích:
+ Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa thế giới. Tác phẩm Truyện Kiều của ông được xem là kiệt tác của nền văn học được dịch ra nhiều thứ tiếng.
+ Đoạn trích Trao duyên là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời lưu lạc đau khổ của Thúy Kiều sau khi phải bán mình để lấy tiền đút lót cho quan lại cứu cha và em. Trước lúc đi xa, Kiều đã cầu xin Thúy Vân chấp nhận mối duyên thừa thay Kiều chăm sóc cho Kim Trọng.
– Khái quát nội dung 12 câu đầu: Lời Thúy Kiều nhờ cậy, van xin Thúy Vân thay mình kết duyên cùng Kim Trọng.
2. Thân bài 12 câu đầu Trao duyên
a) Luận điểm 1: Lời nhờ cậy của Thúy Kiều (2 câu đầu)
– Lời nói:
+ “Cậy“: đồng nghĩa với “nhờ”, ngoài ra còn bao hàm ý nghĩa gửi gắm, mong đợi mang được những sự tin tưởng về sự giúp đỡ đó. -> Âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói.
+ “Chịu“: đồng nghĩa với “nhận lời” nhưng mang một ý nghĩa nặng hơn đó là bắt buộc phải chấp nhận, nài ép, không thể không nhận.
=> Ngôn ngữ vừa nhờ vả, vừa nài nỉ, vừa là sự ép buộc.
– Hành động, cử chỉ: “lạy”, “thưa”
+ Thái độ kính cẩn, trang trọng của người bề dưới đối với người bề trên hoặc với người mình hàm ơn.
+ Hành động của Kiều tạo ra sự trang nghiêm, thiêng liêng cho điều sắp nói ra.
=> Thể hiện sự thông minh, khéo léo của Thúy Kiều.
b) Luận điểm 2: Những lí lẽ trao duyên của Kiều (10 câu sau)
– Nhắc lại mối tình đẹp để gợi tình cảm (4 câu đầu)
+ “đứt gánh tương tư”
+ “Mối tơ thừa”
+ “Quạt ước, chén thề”
=> Thúy Kiều giãi bày tình cảnh tình duyên dang dở của mình cho em được hiểu.
– Những lí do khiến Kiều trao duyên cho em:
+ Gia đình Kiều gặp biến cố lớn “sóng gió bất kì”
-> Kiều rơi vào tình cảnh ngang trái, khó xử dẫn đến mối tình dang dở và đầy bất hạnh của Kim – Kiều.
+ Kiều bắt buộc phải chọn giữa tình và hiếu cho nên nàng đã chọn hi sinh chữ tình.
+ Thúy Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước
+ “Xót tình máu mủ thay lời nước non” -> Nhắc đến cả tình cảm ruột thịt của những người cùng huyết thống để thuyết phục em.
+ “Thịt nát xương mòn”, “Ngậm cười chín suối” -> Kiều viện đến cả cái chết để thể hiện sự cảm kích thật sự của mình khi Vân nhận lời.
-> Lời cầu xin đầy lí lẽ và giàu sức thuyết phục khiến cho Vân không thể chối từ.
=> Thông qua tất cả những lý lẽ thấu tình đạt lí mà Kiều đưa ra cho thấy Kiều là một người con gái thông minh và sắc sảo, đầy cảm xúc, có đức hi sinh, một người con hiếu thảo, trọng tình nghĩa.
c) Đặc sắc nghệ thuật 12 câu đầu Trao duyên
– Sử dụng từ ngữ tinh tế, tài tình, lập luận chặt chẽ
– Sử dụng các thành ngữ dân gian và hình ảnh ẩn dụ
– Sử dụng các điển tích, điển cố
– Có sử dụng các thủ pháp nghệ thuật liệt kê, ẩn dụ
– Ngôn ngữ tinh tế, chính xác, giàu sức thuyết phục
– Giọng điệu nhẹ nhàng, da diết, giàu cảm xúc.
3. Kết bài 12 câu đầu Trao duyên
– Khái quát nội dung và giá trị của đoạn thơ.
– Nêu cảm nhận của em.
Sau khi xây dựng được một dàn ý cơ bản phân tích 12 câu đầu Trao duyên như trên, các em nên đọc tham khảo một số bài văn mẫu để mở rộng vốn từ ngữ khi trình bày, rút kinh nghiệm về cách trình bày cũng như hành văn trong bài viết của mình sắp viết. Có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây mà Đọc Tài Liệu đã tổng hợp được.
Dưới đây là 7 bài văn phân tích 12 câu đầu Trao duyên hay và ấn tượng mà chúng tôi muốn giới thiệu tới các em tham khảo, hi vọng sẽ bổ sung thêm vốn kiến thức cũng như từ ngữ cho quá trình hoàn thiện bài văn của các em:
1. Phân tích Trao duyên 12 câu đầu mẫu số 1
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam, ông sinh năm 1766 mất năm 1820, tên chữ là Tố Như. Quê ông ở Hà Tĩnh, ông được sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc. Sống trong giai đoạn đồng tiền làm băng hoại đạo đức đầy biến động, Nguyễn Du chứng kiến được rất nhiều cảnh đời bất công, cũng như sự thối nát của xã hội bấy giờ. Và ông có sự cảm thông sâu sắc đối với người phụ nữ bất hạnh. Nguyễn Du đã viết ra nhiều tác phẩm văn học để nói thay cho tấm lòng đầy ai oán, cho số phận bạc mệnh đáng thương của người phụ nữ. Trong đó có bài “Trao duyên“, là một bài thơ trong tuyệt tác “Truyện Kiều“, một bài thơ bi cảm được thể hiện qua từng câu, từng chữ, nó mang đến một nỗi xúc động khôn nguôi cho người đọc.
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiều tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Đọc nhan đề bài thơ là Trao duyên nhưng tại sao mở đầu bài thơ lại khiến ta khó hiểu như vậy. “Cậy em, em có chịu lời“, đây giống như một lời nhờ cậy, một lời gửi duyên phận của mình cho người khác, nhờ họ thay mình tiếp tục một mối duyên dang dở. Nguyễn Du đã sử dụng từ “cậy” để cho chúng ta thấy rằng, Thúy Kiều đã nhờ bằng tất cả niềm hi vọng và tin tưởng, đồng thời dùng từ “chịu” để thể hiện cho việc phải đồng ý, phải bắt buộc nhận lời, không thể từ chối. Qua đó có thể thấy được tình yêu sâu sắc, chân thành của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng.
“Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Câu thơ như xé tâm can người con gái. Vừa cảm thấy có lỗi với người em gái, vừa cảm thấy xót xa cho số phận của mình. Kiều đã dùng lễ nghi lạy trước thưa sau, thay đổi ngôi của hai người để ràng buộc Thúy Vân. Để cái tình của mình trao lại cho em.
Sau đó, Thúy Kiều bắt đầu giãi bày lí do cho những hành động trước đó. “Giữa đường đứt gánh tương tư/ Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”. Câu thơ là sự giãi bày cho em biết là cuộc tình của chị bây giờ đành dang dở “đứt gánh tương tư”. Cuộc tình của Kiều vừa mới chớm nở nhưng không thể đơm hoa kết trái bởi sóng gió đang ập đến. Kiều đau khổ, xót xa nhưng không thể làm khác được, đành trao lại mối duyên này cho em.
Nàng đã mượn điển tích “keo loan” để nói lên ý định muốn Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Nàng cảm thấy có lỗi, cảm thấy day dứt vô cùng đối với em, vì cảm thấy như mình ép duyên, buộc em phải nhận, nhưng vẫn giao phó “tơ thừa” để “mặc” Thúy Vân quyết định.
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”
Câu thơ đã liệt kê ra những kỉ niệm của Thúy Kiều và Kim Trọng, kỉ niệm cùng quạt ước, cùng nâng chén rượu thề nguyện, chúng ta dễ dàng nhìn thấy một cảnh tượng vô cùng sống động đang diễn ra của đôi uyên ương. Đẹp biết mấy. Từ “khi” được lập lại ba lần gợi cho ta cảm nhận một tình cảm sâu nặng, nhưng xót xa và dày xé tâm can nàng cũng như người đọc. Nguyên nhân tại đâu mà dẫn đến cơ sự này.
“Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”
Quá khứ tươi đẹp là thế, nhưng hiện tại của nàng, từ khi chàng Kim về chịu tang, bao sóng gió ập đến, đứng giữa chữ hiếu và tình nàng phải làm sao đây. Hoàn cảnh trái ngang, cha và em mắc oan bị bắt, nàng phải bán thân mình mới cứu được họ, nhưng người nàng yêu, một lòng vì nàng, lời thề nguyện mới hôm nào chưa kịp nguội. Cả một con tim đang chảy máu, đau đớn, day dứt, quằn quại.
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Nàng dùng tình máu mủ, nàng dùng đến cái chết để thuyết phục. Nguyễn Du đã dùng các thành ngữ để giúp nàng Kiều thể hiện sự quyết tâm thuyết phục em chấp nhận yêu cầu. Tình nghĩa của chàng Kim rất quan trọng, dù nàng có phải thịt nát xương mòn thì nàng cũng chấp nhận, chỉ mong sao Vân giúp nàng nối duyên với Kim Trọng. Dù xuống suối vàng nàng vẫn ngậm cười, vẫn cảm thấy hạnh phúc, mãn nguyện.
Chính cách viện dẫn đến tình máu mủ và cái chết ấy đã khiến Vân không thể chối từ. Có thể nói đây là cách duy nhất để vẹn lí, vẹn tình. Đây cũng có thể là một lời trăn trối của nàng, mà ắt hẳn cả chúng ta cũng không thể nào nhẫn tâm từ chối yêu cầu đó. Nghe những lời xót xa đó, hẳn sẽ khiến nàng Vân càng thêm yêu quý chị mình.
Thể thơ lục bát đã giúp cho Nguyễn Du dễ dàng khắc họa tâm trạng dằn vặt, sự đớn đau khi phải hi sinh chữ tình để vẹn tròn chữ hiếu của Thúy Kiều. Nàng đã được ông tô vẽ lên thật đẹp đẽ trong lòng người đọc. Một cô gái quá mong manh nhưng rất mạnh mẽ.
Trao duyên đã cho chúng ta thấy được một cảnh đời đầy bi kịch, một số phận nghiệt ngã đến xé lòng của nàng Kiều. Nhờ sự trải nghiệm và cái nhìn sâu sắc cùng khả năng sử dụng từ điêu luyện của Nguyễn Du đã khiến cho nội tâm của nhân vật như được khắc họa rõ nét nhất, từ nỗi đau đến tâm hồn của Kiều như đang trải dài qua từng câu chữ. Khiến người đọc mãi không thể thôi xót thương.
Phân tích 12 câu đầu đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)
2. Phân tích 12 câu đầu Trao duyên mẫu số 2
Đại thi hào Nguyễn Du (1765 – 1820) tên chữ là Tố Như là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Truyện Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Đoạn trích “Trao duyên” đã nói lên nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, cũng là phần mở đầu cho cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều. Và đặc sắc nhất có lẽ là 12 câu thơ đầu.
Chỉ 12 câu nhưng sao như tiếng nấc uất nghẹn ngào:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ chân tình, thuần hậu để nói chuyện với Thúy Vân. Từ “cậy” được sử dụng thật đặc sắc, là “cậy” chứ không phải “nhờ”, người được “cậy” khó lòng từ chối. Thúy Kiều đã đặt hết niềm tin tưởng của mình vào Thúy Vân và Thúy Vân không thể thoái thác được và phải “chịu lời”. Kiều đã đặt Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không có người chị nào lại xưng hô với em mình bằng những từ ngữ tôn kính chỉ dùng với bề trên như “thưa, lạy”.
Kiều muốn chuẩn bị tâm lí cho Vân để đón nhận một chuyện hệ trọng mà nàng chuẩn bị nhờ cậy em bởi nàng hiểu rằng việc mà nàng sắp nói ra đây là rất khó khăn với Vân và cũng là một việc rất tế nhị:
“Hở môi ra những thẹn thùng
Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai”
Từng từ được thốt ra đều được nhân vật cân nhắc kĩ càng, chọn lọc, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ rất “đắt”. Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du muốn diễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ “đơm hoa kết trái”, mối nhân duyên mà nàng mong ước sẽ được lâu bền lại cho Thúy Vân:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
“Gánh tương tư” là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị nhưng giờ giữa đường lại “đứt gánh” còn đâu. Tơ duyên là của chị, khi đến với em nó đã là “tơ thừa”. Chị hiểu em tuổi còn trẻ có thể chưa biết đến tình yêu. Đáng lẽ em còn được hưởng bao mật ngọt của tình yêu nhưng xin em hãy xót người chị bạc mệnh này mà đáp nghĩa cùng chàng Kim.
Ôi! Lời của Kiều thật thống thiết. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên. Cái day dứt của Kiều là day dứt cho Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa” của mình. Từ “mặc” sử dụng ở đây không phải là mặc kệ em, mặc cho ra sao thì ra mà có nghĩa là Kiều muốn phó thác, giao phó trách nhiệm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự cậy nhờ của mình nơi Vân.
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề”
Từ “khi” được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh tình cảm mà Kiều dành cho Kim Trọng nào đâu phải tình cảm một sớm một chiều. Những kỉ niệm đẹp giữa nàng và Kim Trọng như sống lại trong những câu thơ “ngày hẹn ước, đêm chén thề”. Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui nhưng cũng nghe như tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, những kỉ niệm đẹp ấy sẽ kết thúc, chỉ còn lại chuỗi ngày bi thảm tiếp sau.
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
“Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, Kiều phải bán mình chuộc cha và em. Những biến cố xảy ra liên tục, đẩy Kiều vào chỗ bế tắc, là người chị cả, Kiều phải hi sinh bản thân mình để gia đình được đoàn tụ, êm ấm, bởi lẽ: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”.
Chữ “hiếu” là một phạm trù đạo đức trong đạo Nho, vì hiếu con người ta phải dẹp bỏ tình riêng, là một quan niệm đạo đức phổ biến của người xưa. Và Kiều cũng thế, nàng không bao giờ cho phép mình trở thành người con bất hiếu. Nàng đã chôn vùi tình cảm riêng tư để báo hiếu cho cha mẹ:
“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”
Khi đã quyết định bán thân chuộc cha và em, Kiều lại nhớ đến Kim Trọng, nàng tự thấy mình là người phản bội, không xứng đáng với chàng:
“Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa”
Ở đời, phàm, người ta thường hi sinh tất cả mọi thứ vì tình yêu. Là người ai chẳng khát khao được gắn bó với người mình yêu. Và ở người con gái đa sầu đa cảm như Kiều thì khát vọng ấy lại càng mạnh mẽ gấp bội, vì tình yêu nàng đã từng vượt qua cả lễ giáo phong kiến khắt khe nhất để “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Vậy mà giờ Kiều lại đành lòng vứt bỏ, thật đau đớn xiết bao! Nhưng vì:
“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”
Có lẽ chỉ có những người con gái mang trong mình trái tim bao dung như Thuý Kiều mới đủ sức mạnh để làm những việc tưởng chừng khó khăn nhất như thế!
Sợ chưa thuyết phục được em, Kiều đã dùng hết lý lẽ, sự tỉnh táo nhất của lí trí để trải lòng cùng em:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”
Đúng vậy, Thúy Vân còn trẻ, còn nhiều thời gian vun đắp cho tình cảm riêng tư nên xin hãy nhận lời chị kết duyên cùng chàng Kim. Để thêm thuyết phục và Vân không thể chối từ, Kiều đã đem “tình máu mủ” ra để cầu xin Vân. “Máu chảy ruột mềm” còn gì thiêng liêng hơn tình chị em gắn bó, ruột thịt. Em hãy giúp chị thay “lời nước non” cùng chàng. Kiều cũng đã đặt mình vào địa vị của Vân, phải kết duyên cùng người mình không quen biết, mà còn là người yêu của chị mình, ta có thể cảm nhận ở đây Thúy Vân là người thiệt thòi nhất…
Tuổi của Kiều và Vân xấp xỉ nhau “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” thế nhưng đối với Kiều giờ đây, tuổi xuân của nàng đã kết thúc. Khoảng thời gian xuân xanh đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng nay chỉ còn là những kỉ niệm mà không có tương lai. “Trao duyên” cho em, nghe thật kì lạ nhưng trong hoàn cảnh của Kim, Vân, Kiều thì đây là một việc không khó hiểu trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Những dòng nước mắt không thể chảy ra nhưng cứ âm ỉ, phảng phất trong từng câu, từng chữ… Nỗi đau đớn đến xé lòng nhưng vẫn phải dằn xuống, kìm nén để nói những lời trao duyên cho em. Thật đau xót thay! Chữ “tình” đối với Kiều vô cùng quan trọng, thế nhưng nàng lại từ bỏ nó để làm tròn chữ “hiếu”. Mất đi tình yêu đối với nàng là mất đi tất cả. Nói đến đây Kiều tưởng như cuộc đời mình đã kết thúc, không còn gì để luyến tiếc, níu giữ:
“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Bản thân phải hi sinh, Kiều không đắn đo thiệt hơn, nhưng khi nhờ cậy đến em gái thì đó là một cái ơn lớn đối với nàng. Cho nên lời nhờ cậy của Kiều thật thiết tha, lời cảm tạ của Kiều thật sâu sắc, cảm động. Xét về ngôn từ thì lời nói của Kiều khẩn thiết mà vẫn đúng mực, kêu nài mà vẫn chí nghĩa chí tình. Nhờ cậy thì vịn đến tình máu mủ ruột thịt. Cảm tạ thì đề cao ơn nghĩa của Thúy Vân và nói đến sự bạc mệnh của mình. Kiều quả thật là người “sắc sảo mặn mà”.
Kiều đã hi sinh tất cả, kể cả cuộc đời nàng đang độ xuân xanh vì gia đình. Thúy Vân dù có vô tư đến đâu cũng có thể hiểu nỗi đau và sự hi sinh quá lớn của chị nên chắc chắn rằng nàng không thể khước từ và chỉ ngậm ngùi đồng ý nhận duyên từ chị. Có lẽ vì thế nên ngay từ đầu chúng ta không nghe một lời đối thoại nào của Vân mà chỉ nghe những lời thuyết phục, van nài và bộc bạch nơi Kiều. Vân đã chấp thuận.
Khi trao duyên cho em xong, Kiều đã nghĩ đến cái chết: “thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối”. Cuộc đời nàng sau khi báo đáp ơn nghĩa sinh thành thì coi như chấm dứt, bởi lẽ mất đi tình yêu là nàng đã mất tất cả, mất hi vọng, mất định hướng, linh hồn nàng như tê dại và đông cứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời đầy tăm tối ở ngày mai.
Xã hội phong kiến thối nát đã chia rẽ tình yêu đôi lứa, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, chà đạp lên số phận của người phụ nữ, những con người xinh đẹp, tài hoa.
“Đau đớn thay phận đàn bà
Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân!”
kiếp số của họ:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
Qua đoạn trích “Trao duyên“, ta nhận thấy Nguyễn Du thật sự là một bậc đại tài trong việc thấu hiểu từng khía cạnh tinh tế nhất của tâm can con người. Chính sự thấu hiểu sâu sắc ấy cùng với nghệ thuật dùng từ điêu luyện, đã khiến tác phẩm của Nguyễn Du tồn tại như một giá trị vĩnh cửu vượt qua tất cả thử thách khắt khe của thời gian, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng đối tượng tiếp nhận, đã khiến cho triệu vạn người phải rơi nước mắt khóc than cho số phận nàng Kiều:
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)
Hay như Mộng Liên Đường cũng đã từng nhận xét: “Nguyễn Du viết Truyện Kiều như có máu rỏ lên đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua tờ giấy“, quả thật không ngoa chút nào!
3. Phân tích 12 câu đầu Trao duyên mẫu số 3
Trao duyên nằm ở đầu phần hai: Gia biến và lưu lạc, khép lại những tháng ngày “êm đềm trướng rủ màn che” mở ra mười lăm năm lưu lạc và số phận bất hạnh của nàng Kiều. Trước khi bước vào giai đoạn đầy đau thương ấy, vào đêm cuối cùng trước khi xa nhà, Thúy Kiều đã trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Tình cảnh ấy khiến người đọc không thể cầm nước mắt và cảm thương cho số phận nàng.
Mở đầu đoạn trích là lời cậy nhờ của Kiều với Vân:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Ngôn ngữ của nàng Kiều sử dụng tỏ ra hết sức tinh tế và chuẩn xác. Chữ “cậy” vốn giống chữ “nhờ” là hành động yêu cầu, mong muốn ai đó làm việc gì đó giúp mình. Nhưng chữ “cậy” lại khác chữ “nhờ” ở sắc thái biểu cảm, “cậy” thể hiện một sự tin tưởng trọn vẹn đến người được nhờ. Chữ “chịu” giống chữ “nhận” nghĩa là đồng ý, nhưng đồng thời chữ này cũng khác chữ “nhận” ở thái độ tình cảm khẩn thiết, van nài, đặt người được nhờ vào tình thế không thể từ chối. Như vậy với cách sử dụng ngôn ngữ khéo léo, Thúy Kiều đã bước đầu đặt em vào tình thế phải nhận lời.
Không chỉ ngôn ngữ mà cử chỉ, hành động cũng hết sức chân thành: lạy, thưa. Hành động “lạy” vốn chỉ hành động kính trọng, biết ơn của kẻ dưới với người bề trên. Nhưng trong hoàn cảnh này người lạy lại là Thúy Kiều chị, người được lạy là Thúy Vân – em. Có sự đảo ngược vị thế giao tiếp kẻ chịu ơn đang lạy ân nhân của mình. Kiều đã cúi mình trước em, vì nàng hiểu rằng việc nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng là bất công, là thiệt thòi với em rất nhiều.
Hành động “thưa” cũng là một từ chỉ hành động kính trọng của kẻ dưới với người trên. Trong hoàn cảnh này, nó được sử dụng để thể hiện sự trân trọng, biết ơn của Thúy Kiều trước sự hi sinh của Vân. Ngoài ra cũng cần kể đến giọng điệu hết sức tha thiết, chân thành Thúy Kiều dành cho em.
Trao duyên vốn là một vấn đề hết sức tế nhị và khó nói nên Thúy Kiều đã phải suy nghĩ, chọn lọc thật kĩ lưỡng ngôn ngữ, cử chỉ, giọng điệu sao cho phù hợp để mở lời trao duyên. Ngay từ cách mở lời trao duyên người đọc đã có thể cảm nhận được sự thông minh, tinh tế am hiểu tâm lí và luôn nghĩ cho người khác của nàng Kiều.
Sau những lời mở đầu hết sức khôn khéo ấy, Thúy Kiều đã tâm sự với em những điều thật lòng để thuyết phục em nhận lời trao duyên. Trước hết nàng tâm sự với em về mối tình với Kim Trọng: “Kể từ khi gặp chàng Kim/ Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”. Những kỉ niệm tình yêu thật đẹp đẽ, sâu đậm mà nàng chỉ muốn giữ cho riêng mình, từ “khi” được lặp lại hai lần đã cho thấy rõ mong muốn đó.
Nhưng tất cả chỉ còn là quá khứ xa xôi, thực tại thật đau đớn và phũ phàng với nàng:
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Hoàn cảnh “giữa đường đứt gánh tương tư” Kiều bị đặt vào tình thế lựa chọn chữ hiếu và chữ tình. Đau đớn và xót xa nhưng một người con có hiếu như nàng nhất định sẽ không chọn chữ “tình” mà để cha mẹ phải đau khổ, nàng lựa chọn chữ “hiếu” mà trái tim như vụn vỡ khi phải phụ lòng chàng Kim. Tình yêu đẹp đẽ vừa chớm nở đã bị hiện thực phũ phàng, ngang trái làm tan vỡ.
Nàng dằn lòng mình, lấy lời lẽ khéo léo để khuyên em và cũng là thuyết phục em:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Thúy Kiều đã đưa ra ba lí lẽ để thuyết phục em: trước hết em vẫn còn trẻ, tuổi xuân còn dài, thứ hai nàng lấy tình chị em để lay động Thúy Vân, và thứ ba nàng lấy cả cái chết ra để thuyết phục, dù có chết nàng vẫn “ngậm cười” vì hành động cao đẹp Thúy Vân đã nhận lời với mình. Với ba lí lẽ hết sức thuyết phục như vậy, đã khiến cho Thúy Vân không thể chối từ lời đề nghị của chị.
Mặc dù vô cùng đau đớn khi phải trao duyên của mình cho em nhưng Thúy Kiều không hề quan tâm đến sự thua thiệt của bản thân mình, đến nỗi đau mà mình phải chịu đựng, lúc nào nàng cũng chỉ canh cánh một nỗi đau là đã phụ bạc Kim Trọng và tìm cách bù đắp cho chàng. Lời thuyết phục em của nàng vô cùng chân thành, cảm động.
Để tạo nên thành công cho lời thuyết phục trao duyên, ta cũng không thể không nhắc đến những đóng góp về mặt nghệ thuật. Ngôn ngữ sử dụng tài tình, những chữ dùng đắt giá “lạy”, “thưa”, “cậy”,… có ý nghĩa quan trọng trong việc thuyết phục Thúy Vân. Lập luận, lí lẽ sắc bén vừa lí trí mà cũng vô cùng tình cảm.
Bằng lớp ngôn từ tinh tế, thông minh Thúy Kiều đã khiến em gái Thúy Vân phải nhận lời trao duyên. Qua đó ta thấy sự thông minh, khéo léo của Thúy Kiều. Đồng thời cũng thấy được tấm lòng thủy chung, người con có hiếu với cha mẹ của nàng Kiều. Đồng thời cũng cho thấy số phận đầy bất hạnh của nàng.
4. Phân tích Trao duyên 12 câu đầu bài số 4
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, sinh ra ở miền quê hiếu học Hà Tĩnh, tuy sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc nhưng cuộc đời ông lại phải trải qua khá nhiều biến động. Chứng kiến nhiều mảng đời bất hạnh trong xã hội nên dễ dàng đồng cảm, sự đồng cảm đó được ông đưa vào thơ ca. Nổi bật là tác phẩm “Truyện Kiều“, Kiều tuy tài sắc vẹn toàn, mười phân vẹn mười nhưng lại phải chịu quá nhiều bất hạnh. Đầu tiên là việc phải bán mình để chuộc cha và em trai, từ bỏ mối lương duyên mới chớm nở. Ở đoạn trích “Trao duyên“, 12 câu thơ đầu đã thể hiện rõ được tâm trạng của Kiều ngay thời điểm bấy giờ.
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Cảnh trao duyên được tái hiện ngay từ hai câu thơ đầu, cảnh khó xử của các hai chị em Vân Kiều ở đây người đọc cũng có thể thấy được. Một đằng người chị là Thúy Kiều đau đớn trao đi mối duyên cho em, còn người em bị rơi vào tình thế khó xử khi phải chấp nhận mối lương duyên của chị. Ngôn ngữ Thúy Kiều sử dụng vừa nhờ vả nhưng cũng vừa có sự ép buộc trong đó, thể hiện qua các từ như cậy em, có chịu lời. Hành động “lạy” của Thúy Kiều cũng thể hiện sự trang trọng, trang nghiêm khi hạ mình với em.
Tiếp 10 câu thơ tiếp theo, những từ ngữ như rút ra từ gan ruột của Thúy Kiều được lấy ra để van xin em đồng ý. Đối với Kim Trọng là mối tơ duyên nhưng giờ đã “đứt gánh tương tư”, nhận thức được bản thân phải bán mình chuộc cha không thể tiếp tục con đường phía trước cùng Kim Trọng được nữa. Nay chị “chắp mối tơ thừa” mong em có thể tiếp tục mối duyên lành này, giữ trọn lời thề ước của Kim Trọng.
Để cho Thúy Vân hiểu rõ tình cảnh của bản thân lúc này, Thúy Kiều đã giãi bày rằng “đâu sóng gió bất kỳ”. Khi cả Trọng và Kiều thề ước đâu có nghĩ tới sóng gió ập tới nhanh như vậy, bản thân Kiều phải chọn giữa “hiếu tình”, và nàng chọn làm tròn bổn phận của một người làm con. Chữ “hiếu” đã tròn, còn chữ “duyên” nàng đành nhờ cậy em gái, “xót tình máu mủ” mà chấp nhận mối duyên này.
Lời chấp nhận của Thúy Vân lúc này sẽ khiến Thúy Kiều hạnh phúc vô cùng, sự chấp nhận này giống như ban ơn. Cho “dù thịt nát xương mòn” thì vẫn có thể “ngậm cười chín suối”. Bởi những lời lẽ chặt chẽ, đầy tính thuyết phục mà Thúy Vân chẳng có cách nào để từ chối được.
Đọc những câu thơ này ta thấy được tình yêu sâu sắc mà Kiều dành cho Kim Trọng, thêm phần yêu mến Kiều khi nàng chấp nhận hy sinh hạnh phúc của bản thân để cứu lấy cha và em trai, nàng đã làm tròn chữ “hiếu” của một người con.
Đoạn trích “Trao duyên” của tác giả Nguyễn Du chính là bước mở đầu cho chuỗi ngày tháng đầy đau khổ sau này của nàng Kiều. Tuy 12 câu thơ đầu của đoạn trích ngắn ngủi nhưng cũng đủ cho ta thấy được tài năng nghệ thuật trong miêu tả cảnh và tâm trạng nhân vật của Nguyễn Du.
(Nguồn: cunghocvui.com)
5. Trao duyên 12 câu đầu – Lời cậy nhờ như tiếng nấc đầy uất nghẹn
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc và sống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Nguyễn Du đã từng chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Sau khi đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du đã sáng tác nên kiệt tác ”Truyện Kiều“.
“Trao duyên” là một đoạn trích thể hiện bi kịch tan vỡ, dang dở tình yêu Thúy Kiều và Kim Trọng, nỗi đau tột cùng của Kiều về số phận bi thương của đời mình. Đồng thời, đoạn trích cũng đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du trước số phận bất hạnh của, khát vọng hạnh phúc của con người trong đó tiêu biểu nhất là đoạn thơ:
“Cậy em em có chịu lời
…
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Sau khi thu xếp xong việc bán mình để cứu cha và em ”Tờ hoa đã kí, cân vàng mới trao”. Ngày mai nàng sẽ phải theo Mã Giám Sinh ra đi. Đêm ấy, Kiều bồi hồi thương cho chàng Kim, tìm cách trả nợ tình cho chàng. “Đèn thắp sáng đêm nước mắt đầm đìa / Dầu chong trắng đĩa, lệ tràng thấm khăn”, nhân lúc Thúy Vân thức dậy hỏi han bây giờ Kiều mới nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Đoạn trích có vai trò quan trọng như một bản lề khép mở hai phần đời đối lập của Kiều là hạnh phúc và đau khổ. Không chỉ thương chị Thúy Vân còn rất hiểu lòng chị, có lẽ vì vậy mà chuyện tình duyên vốn dĩ rất khó trao, khó nhận nhưng đã được Thúy Kiều thuyết phục một cách rất thấu tình đạt lí để mở đầu cho cuộc trao duyên đầy đau đớn.
Lời mở đầu của Kiều hết sức thông minh và sắc sảo:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Trong tình thế: ”Hở môi ra cũng thẹn thùng/ Để lòng thì phụ tấm lòng với ai’‘ nên mở đầu cuộc trao duyên Kiều phải lựa chọn một cách nói, một cách xưng hô đặc biệt. Bởi vậy Kiều không nói nhờ em mà lại nói “cậy em”. Bởi vì chữ “cậy” bao hàm cả niềm hi vọng thiết tha của một lời trông cậy có ý nghĩa, nương tựa tin tưởng mối quan hệ ruột thịt gửi gắm nỗi khẩn khoản thiết tha.
Kiều nói “em có chịu lời” chứ không nói “em có nhận lời” ngoài lí do từ “chịu lời” mang sắc thái bắt buộc, Kiều muốn em không được từ chối lời đề nghị của mình mà còn bởi vì Kiều cảm thấy đây là một sự hi sinh lớn lao của em, vì em phải kết duyên với người yêu của chị. Cách nói như thế phù hợp với tâm trạng, hoàn cảnh van nại khẩn thiết của Kiều, tư thế “lạy, thưa” là tư thế của một người chịu ơn với ân nhân của mình, bởi Thúy Vân phải thay Thúy Kiều hi sinh tình duyên của mình mà giúp chị nối duyên chàng Kim, việc làm đó mang ơn em rất lớn.
Kiều đã tạo một bầu không khí trang nghiêm, trịnh trọng vừa tình vừa lễ buộc Thúy Vân không thể không nhận lời. Với cách dùng từ khéo léo và sắc thái chỉ qua hai câu đầu, Nguyễn Du đã mở đầu cuộc trao duyên đầy hồi hộp, trang trọng đồng thời thể hiện được hoàn cảnh éo le, tâm trạng khẩn thiết bế tắc của Kiều.
Sáu câu tiếp theo Kiều kể lại vắn tắt mối tình của nàng với Kim Trọng:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Đoạn thơ ngắn gọn hướng vào những chuyện riêng tư tình yêu dở dang, tan vỡ được thông tin ngắn gọn trong một thành ngữ nặng nề, chắc nịch. Có thể nói mối tình của Kiều và Kim Trọng đang đến độ say đắm nhất, nồng nàn nhất thì cơn gia biến ập đến với Kiều, vì thế Kiều đành phải phó thác cho em, vì Kiều cũng rất thấu hiểu cảm giác thiệt thòi của em: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”.
Kiều phó mặc cho em dang dở hay không em cũng phải gánh vác, chắp mối cho chị. Có thể nói lời Kiều mang giọng điệu sắc thái dứt khoát, nghiêm trang và mang nhiều sức nặng nhưng cũng rất nghẹn ngào đau xót:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Có thể nói sự trùng điệp của ba từ: “khi gặp – khi ngày – khi đêm” đã nói đến sự thề ước sâu nặng không thể nuốt lời, càng khẳng định tâm trạng bế tắc của Kiều. Mối tình Kim – Kiều đang mặn nồng cơn gia biến ập đến Kiều buộc phải hi sinh chữ tình vì “chữ hiếu”, thậm chí hi sinh cả tấm thân trong trắng ngọc ngà của mình để cứu cả gia đình. Kiều đã nói ra cái cái lí của mình và hi vọng em sẽ thấu hiểu tâm trạng bi kịch của mình.
Tám câu thơ đầu ngoài lời trao duyên, Kiều chủ yếu nói về nỗi bất hạnh của mình nhưng để trao duyên Kiều phải chọn những lời lẽ thuyết phục. Bốn câu tiếp theo Kiều thuyết phục em bằng cả lí lẫn tình:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Từ ” ngày xuân” mang tính ước lệ có ý chỉ tuổi trẻ của người con gái, Kiều muốn nói tuổi trẻ của em còn dài, và vì “tình máu mủ” giữa chị và em mà thay lời nước non giúp chị. Kiều kêu gọi tình chị em máu mủ ruột thịt thiêng liêng, khơi dậy ở Vân đức hi sinh và lòng vị tha vì người thân. Nếu được mãn nguyện thì dẫu Kiều chết đi dưới chín suối cũng hả dạ vì có được tiếng thơm là người có tình có nghĩa.
Có thể nói đoạn thơ sử dụng khá nhiều thành ngữ, lời lẽ, ý vị kín đáo, vẹn tình. Người nhận có ba lí do không thể khước từ, trước hết Kiều và Vân không cách nhau về tuổi tác, thứ hai lại càng thuyết phục hơn Kiều đang nhờ Vân một điều mà chẳng ai nhờ vả bao giờ. Đã khó nhờ, khó nhận thì chỉ có tình cảm chị em máu mủ mới dễ dàng đồng cảm chấp nhận cho nhau.
Lý do thứ ba nghe như một lời khẩn cầu đầy chua xót:
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Đó không hẳn là lí do nhưng lại hoàn toàn hợp lí, nó như một lời trăn trối và không ai có thể nhẫn tâm từ chối lí do của một người thân sắp rơi vào hoàn cảnh khôn lường, bất trắc. Người ta nói Nguyễn Du hiểu đời là ở những chỗ như vậy.
Đoạn trích đã bộc lộ nỗi đau tình yêu và số phận bi kịch của nàng Kiều, qua nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình của Nguyễn Du, nỗi đau và cả vẻ đẹp tâm hồn của Kiều, một người con gái tài sắc hiếu nghĩa vẹn toàn đã được thể hiện một cách tinh tế và tỏa sáng lấp lánh.
6. Phân tích 12 câu đầu đoạn trích Trao duyên bài số 6
Trong cơn gia biến, một mình Kiều đứng ra cáng đáng, thu xếp mọi việc. Băn khoăn cân nhắc giữa hiếu và tình. Kiều thấy cả hai đều rất nặng, nhưng rồi nàng quyết định bán mình chuộc cha. Cha và em được tha về, việc nhà đã tạm ổn, Kiều mới nghĩ đến chuyện tình duyên. Trước hết, nàng nghĩ đến nỗi khổ của người yêu. Phận mình dù thế nào cũng đành, nhưng nàng không đành lòng với tình cảm của chàng Kim. Phải làm thế nào cho người yêu đỡ khổ. Suy nghĩ mãi, cuối cùng Kiều đành nhờ em gái là Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Đoạn trích Trao duyên thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều, đồng thời cho thấy khả năng miêu tả nội tâm nhân vật tài tình của Nguyễn Du. Có thể chia đoạn trích làm hai phần:
Phần 1 (từ câu 1 đến câu 12): Thúy Kiều nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Phần 2 (từ câu 13 đến hết): Tâm trạng đau đớn của Kiều sau khi trao duyên.
Đoạn trích thực ra là một lời thoại khá dài của nhân vật Thúy Kiều và tính chất lời thoại thay đổi theo diễn biến cảm xúc. Ở phần 1, Kiều xưng hô chị, em rõ ràng với Thúy Vân. Đến phần 2, sau khi đã trao duyên, Kiều cảm thấy hạnh phúc của mình đến đây là chấm dứt nên tự xưng mình là người mệnh bạc, người thác oan và Kiều như quên rằng đang nói với em, đột nhiên chuyển sang nói với Kim Trọng đang vắng mặt. Đó là lời đối thoại đau đớn với người yêu trong tâm tưởng.
Trước sự thực phũ phàng là ngày mai nàng sẽ thuộc về tay kẻ khác, Kiều cảm thấy như chính mình đã gây ra nỗi bất hạnh cho Kim Trọng. Nàng thương mình một nhưng thương người yêu mười nên cắn răng chấp nhận số phận đen bạc “phận dầu, dầu vậy cũng dầu” để nghĩ đến nỗi đau của Kim Trọng. Trong đêm gia biến “một mình một ngọn đèn khuya,/ áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu”, Thúy Kiều sống với tâm trạng đầy sóng gió.
Nàng tự trách mình khăng khít khiến người dở dang. Đúng ra là cả hai chủ động yêu nhau và tự nguyện gắn bó với nhau. Kiều có mặc cảm đó là vì nàng luôn nghĩ đến người khác, ngay cả trong lúc đau thương tột bậc. Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ có một cách có thể cứu vãn phần nào cho mối lương duyên của mình, đó là trao duyên cho em gái. Nghĩ là làm, Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân khi cô em vô tư ấy vừa chợt tỉnh giấc xuân.
Ngỏ chuyện riêng tư với người khác, cho dù là em gái mình thì cũng không phải là điều dễ dàng. Hơn nữa, đây không phải là tình yêu thoáng qua mà đã thề nguyền vàng đá, kết giải đồng tâm. Nó trở thành thiêng liêng, khó có thể đổi thay. Nay nhờ Vân thay thế mình Kiều sợ chưa chắc Vân đã nhận lời.
Kiều lâm vào tình thế khó xử: không nói không được mà nói ra thì e ngại. Bởi thế nên nàng đắn đo trước sau, băn khoăn, ngập ngừng mãi rồi mới thốt ra được một câu khiến người ngoài cuộc nghe cũng phải mủi lòng:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Lời gì vậy? Đó là lời nhờ em thay chị nối duyên với chàng Kim. Đề nghị ấy thật bất ngờ, bất ngờ ngay cả đối với Thúy Kiều bởi trước đó nàng chưa hề nghĩ đến. Suốt, một đêm thức trắng, nàng đâu có nghĩ ra điều này mà chỉ đau khổ, dày vò. Nhưng từ lúc Thúy Vân thức giấc và an ủi chị thì Kiều như vụt thấy một làn chớp sáng: “Đây rồi! Cô em gái này có thể giúp mình trả món nợ tình”.
Đề nghị ấy cũng bất ngờ đối với Thúy Vân bởi nó vô cùng quan trọng, ảnh hướng đến cả cuộc đời, nhận lời lấy một người làm chồng đâu có dễ dàng, đơn giản như nhận một món quà? Vậy dựa vào đâu mà Thúy Kiều dám đưa ra ý kiến đột ngột ấy và hầu như một mực ép Thúy Vân phải nhận lời? Chỉ có cơ sở duy nhất là tình thương.
Chị thương em, tin rằng em sẽ nghe lời. Chị cũng biết là em thương chị, không nỡ trái ý chị. Còn em, tuy chẳng hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao nhưng lại thật tình thương chị riêng gánh chịu nỗi oan khổ của cả gia đình, giờ lại đang đau xót vì mối tơ duyên đứt đoạn nên dù chưa kịp nghe hết giãi bày, chắc cũng đã thấu hiểu hết lòng chị.
Nhiều người thắc mắc tại sao Thúy Kiều không dùng từ nhờ mà lại dùng từ cậy? Không dùng từ nhận mà lại dùng từ chịu? Chính vì giữa các từ ấy có một sự khác biệt khá tinh vi. Đặt nhờ vào chỗ cậy, không những âm điệu câu thơ nhẹ đi, không đọng ở chữ thứ nhất của câu thơ nữa mà còn làm giảm đi cái quằn quại khó nói của Kiều, giảm đi cái ý nghĩa nương tựa, gửi gắm của một tấm lòng đang trong cơn tuyệt vọng, ý nghĩa tin tưởng vào tình cảm ruột thịt. Giữa chịu và nhận thì dường như còn có vấn đề tự nguyện hay không tự nguyện nữa. Nhận lời có nội dung tự nguyện, còn chịu lời thì hình như chỉ có một sự nài ép phải nhận và không nhận không được. Trong tình thế của Thúy Vân lúc bấy giờ thì chỉ có chịu lời chứ làm sao nhận lời được?
Câu thơ sáu chữ giản dị mà chứa đựng tất cả chiều sâu của một tình thế phức tạp, một tâm trạng phức tạp. Điều đó càng làm cho nó có dáng dấp như một lời cầu nguyện. Thúy Kiều năn nỉ Thúy Vân “ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”, vì nàng coi sự chịu lời của Thúy Vân là một hành động hi sinh. Đối với cử chỉ hi sinh ấy thì phải có thái độ kính phục và biết ơn. Thúy Kiều lạy em là lạy sự hi sinh cao cả ấy.
Trong những giây phút đau đớn tột cùng, Thúy Kiều vẫn quên mình để nghĩ đến người yêu. Nỗi buồn của nàng cần phải được san sẻ cho vơi bớt. Sau cái phút ban đầu khó nói, giờ đây nàng bộc bạch với em gái về mối tình đẹp đẽ mà dang dở của mình.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Tâm sự về nỗi khó nghĩ, khó lựa chọn giữa tình và hiếu:
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Là người con có hiếu, Kiều đã tự nguyện bán mình để lấy ba trăm lạng cứu cha và em khỏi vòng tội tù oan nghiệt. Chữ hiếu nàng đã đáp đền, còn chữ tình vẫn canh cánh bên lòng như một món nợ nặng nề khó tả:
Nợ tình chưa trả cho ai,
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Ý nghĩa này cho thấy Thúy Kiều đau khổ biết chừng nào và cũng cao cả biết chừng nào? Nàng van lơn em gái hãy “xót tình máu mủ thay lời nước non” mà bằng lòng kết duyên với chàng Kim. Nhắc tới chàng, Thúy Kiều càng sầu, càng tủi cho thân phận mình, tưởng chừng như nỗi đau theo nước mắt tuôn rơi:
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Tưởng tượng ra cái chết thê thảm cũng là biểu hiện của sự thương thân cao độ, nhưng Kiều tự an ủi rằng vong hồn mình nơi chín suối hãy còn thơm lây với nghĩa cử của Thúy Vân. Kiều bày tỏ những lời gan ruột như thế, hỏi Thúy Vân sao nỡ chối từ?
Ngôn ngữ của Kiều lúc đầu là ngôn ngữ của lí trí. Tuy Kiều rất đa cảm nhưng với chuyện trọng đại của cả một đời người thì nàng không thể dùng tình cảm đơn thuần mà thuyết phục được em. Phải bình tĩnh dùng lí lẽ phân tích thiệt hơn, phải trái để em hiểu mà bằng lòng giúp.
Trước lời nói có lí, có tình tha thiết của Kiều, Thúy Vân chỉ còn biết im lặng lắng nghe và như thế có nghĩa là chấp nhận. Đến đây, Thúy Kiều mới nhẹ lòng. Nàng lấy kỉ vật tình yêu giữa mình và Kim Trọng ra trao cho em gái.
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Nếu như ở đoạn trên, Kiều kể mối tình của mình cho em nghe bằng giọng điệu cố lấy vẻ bình tĩnh thì đến lúc trao lại kỉ vật cho em, nàng cảm thấy mình đã mất hết nên không thể kìm nén được tình cảm thật nữa. Trái tim bắt đầu lên tiếng. Nàng nói “Chiếc vành với bức tờ mây” vẫn bằng giọng điệu cố giữ vẻ bình thản, nhưng đến câu “Duyên này thì giữ, vật này của chung” thì nghe như đã có tiếng nấc nghẹn ngào.
Duyên này là duyên giữa Thúy Vân với Kim Trọng, chứ phần nàng kể như hết. Duyên chị là đã trao lại cho em, nhưng kỉ vật này xin em hãy coi có một phần của chị, nó là của chung. Rõ ràng lí trí buộc nàng phải dứt tình với chàng Kim nhưng tình cảm của nàng thì không thể.
Có điều đặc biệt nằm ở mấy chữ “giữ” và “của chung”. Chữ “giữ” không có nghĩa là trao hẳn mà chỉ đưa cho em giữ hộ; còn chữ của chung thì quá rõ, nó thể hiện tâm lí có tính bản năng là Kiều không đành lòng trao cả lại cho em. Những chữ đó thể hiện tình yêu của Kiều với Kim Trọng là rất nồng nàn, sâu sắc. Tuy nhiên, Kiều vẫn trao duyên cho em, chứng tỏ trong tình yêu và vì tình yêu, Kiều đã đặt hạnh phúc của người mình yêu lên trên hết.
Mối tình đầu trong sáng, ngọt ngào nhường ấy, bỗng chốc bảo quên, quên làm sao được? Xin gửi gắm lại chút tình trong kỉ vật này vậy! Giữa tột đỉnh đau thương, Kiều vẫn cố an ủi. Sau đó, Kiều để mặc cho tình cảm tuôn tràn.
7. Cảm nhận tâm trạng của Kiều trong 12 câu thơ đầu Trao duyên
Nguyễn Du là một trong những đại thi hào xuất sắc của dân tộc. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn học đồ sộ với các tác phẩm bất hủ như: Thanh Hiên Thi tập, Nam Trung Tạp Ngâm, Bắc Hành Tạp Lục, Truyện Kiều… Trong đó Truyện Kiều được xem là tác phẩm đỉnh cao để lại nhiều dấu ấn trong lòng độc giả. Với ngòi bút điêu luyện, xuất sắc Truyện Kiều đã tái hiện bi ai và chua xót cuộc đời người con gái trong xã hội phong kiến xưa. Một trong những đoạn trích làm nên thành công đó của Truyện Kiều đó là đoạn trích Trao duyên với 12 câu thơ đầu thấm đẫm nước mắt nghĩa tình.
Đoạn trích Trao duyên nằm trong phần hai của Truyện Kiều kể về chuỗi ngày biến động và lưu lạc của Thúy Kiều. Mười hai câu thơ đầu chính là mở màn cho chuỗi ngày đầy xót thương ấy, là tiếng lòng tha thiết thẳm sâu Thúy Kiều gửi cậy lại cho Thúy Vân, nhờ em viết tiếp câu chuyện tình yêu Kim Kiều.
Mở đầu bài thơ đã vẽ ra một trớ trêu nghịch cảnh đến nhói lòng:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi hãy thưa”
Thúy Kiều là chị ấy thế nhưng lại “cậy”, lại “thưa” với Thúy Vân? Những từ ngữ mang sắc thái trang trọng thường chỉ được dùng để đối đáp với bề trên thế nhưng ở đây Thúy Kiều lại dùng để ngỏ lời với em gái của mình. Phải chăng Thúy Kiều đang mang nặng một nỗi tâm tư tình cảm khó nói, một vấn đề nghiêm trọng muốn gửi gắm cho cô em gái thân yêu. Cặp từ hô ứng: “cậy – chịu”; “ngồi lên – thưa” thể hiện sự lô-gic đầy khéo léo trong lời tâm tình của Thúy Kiều.
Trước hết Thúy Kiều bày tỏ nỗi lòng mong muốn em sẽ giúp đỡ mình rồi sau đó mới thiết tha tỏ tường. Thúy Kiều vừa như khoản thiết mong chờ vừa như ấn định sự giúp đỡ từ em, rằng chỉ em mới có thể giúp được chị, chỉ có em mới khiến chị tin tưởng giao phó chuyện quan trọng này. Và rồi Thúy Kiều đã bộc bạch cái nỗi lòng đau đáu của mình với em:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
“Gánh tương tư” ám chỉ trách nhiệm tình cảm, một nghĩa vụ chăm sóc yêu thương. “Đứt gánh tương tư” phải chăng là nói về chuyện tình duyên dang dở, Thúy Kiều đang tự trách mình không làm tròn cái đạo lý nghĩa tình với người thương; đang tự dằn vặt khôn xiết cái trách nhiệm bản thân. Và rồi nàng khéo léo mượn điển tích “keo loan” để giãi bày nỗi lòng mong muốn thiết tha rằng Thúy Vân sẽ thay mình kết duyên với Kim Trọng, thay mình chăm sóc yêu thương chàng. Hai chữ “mặc em” thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối của Thúy Kiều khi đem chuyện tình kiếp cả đời giao phó lại cho em.
“Gánh tương tư” không chỉ là lời hứa suông mà nó còn bao hàm biết bao nỗi nhọc nhằn, bao tình cảm đánh đổi. Thúy Kiều biết như thế sẽ là ép buộc em; sẽ làm khó em; biết rằng trong lòng em cũng đang dậy lên những cơn bão lòng băn khoăn, do dự nhất định. Chính vì thế Thúy Kiều đã giãi bày những lý do để thuyết phục Thúy Vân:
“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiều tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”
Thúy Kiều nhớ lại những ký ức của một thời lãng mạn đã qua. “Kể từ khi” như mở ra một không gian dài rộng, mơ ước, hạnh phúc. “Khi ngày quạt ước”, “Khi đêm chén thề” ngày và đêm; quạt ước – chén thề, không gian thời gian như dài rộng ra, con người như đang say mê mải miết với tình yêu cháy bỏng. Mặt trời mặt trăng như đã chứng kiến cho câu chuyện tình yêu Kim Kiều, cho lời thề ước trăm năm hai người. Lời ước thề như khắc sâu vào không gian, vào cảnh vật và trường tồn cùng năm tháng vĩnh cửu.
Tưởng rằng chuyện tình lãng mạn đầy thi vị ấy sẽ đi tới hồi kết tươi đẹp thế nhưng có ai hay sóng gió ập đến, gia đình Kiều phải chịu oan sai, vì muốn bảo vệ cha mẹ và em trai mà Kiều đành phụ Kim Trọng. Đứng giữa cân đo giữa đạo làm con và người mình thương Kiều đành xé lòng làm trọn chữ hiếu. Nàng đã hi sinh chữ tình để làm tròn chữ Hiếu, sống tròn với trách nhiệm người chị cả gia đình.
Kiều vỗ về Thúy Vân rằng em tuổi còn trẻ, sau này sẽ có nhiều thời gian để vun vén tình cảm và dẫu rằng chị với Kim Trọng đã từng có chuyện tình đẹp nhưng lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Tấm chân tình theo thời gian sẽ chắp cánh nên một mối nhân duyên, một cuộc sống hạnh phúc cho hai người.
Kiều cũng viện đến cả tình máu mủ ruột già để cậy nhờ ân tình Thúy Vân. Bởi Kim Trọng là người mà Kiều yêu nhất, chỉ khi giao cho Thúy Vân thì Kiều mới cảm thấy được an ủi và yên tâm phần nào. Và Kiều mong rằng em hãy vì chị chị em em nặng nghĩa tình mà viết nốt lời thề non hẹn biển với chàng Kim.
Thúy Kiều như đang chắt chiu ra từng nỗi đau xót sâu thẳm để giãi bày cùng Thúy Vân và mong rằng Thúy Vân hãy hiểu cho nỗi lòng này mà đồng cảm, sẻ chia.
Tấm ân tình trời bề của Thúy Vân Thúy Kiều sẽ luôn khắc tạc ghi tâm:
“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối, hãy còn thơm lây”
Thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” khiến ta liên tưởng đến cái chết, đến sự đớn đau. Phải chăng chính Kiều đã tiên liệu trước được bão giông sắp xảy đến với cuộc đời mình mà sắp xếp ổn thỏa mọi thứ. Ân tình ngày hôm nay Thúy Vân nhận lời với chị sẽ mãi được Thúy Kiều khắc ghi. Tiếng thơ như trút hết nỗi lòng trong lòng Thúy Kiều. Đối với nàng, việc Thúy Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng chính là niềm vui, niềm an ủi và mãn nguyện nhất đối với cuộc đời, Kiều đời đời kiếp kiếp chẳng quên.
Nguyễn Du thật tài tình khi sử dụng thể thơ lục bát kết hợp với các điển tích và thành ngữ dân gian để bộc lộ tâm trạng Thúy Kiều. Một bức tranh với ngôn từ giản dị, gần gũi nhưng tạo được ấn tượng vô cùng mạnh trong lòng độc giả về hình tượng nhân vật. Phải chăng chính điều này đã làm nên sức lan tỏa và trường tồn của tác phẩm thơ Truyện Kiều.
Phân tích bài Trao duyên ta thấy chỉ với 12 câu thơ mở đầu, Nguyễn Du như dựng lên sự éo le đầy bi ai của cuộc đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Qua đó đã lên án một xã hội thối nát, một xã hội mà sức mạnh đồng tiền đã dồn nén con người tới tận cùng nỗi đau mà chẳng thể làm sao để thoát ra, đầy tăm tối và mịt mù vô cùng.
>>> Xem thêm: Dàn ý bài Sóng của Xuân Quỳnh
Trên đây là dàn ý 12 câu đầu Trao Duyên trong Truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du. Dựa theo dàn ý và những lập luận chi tiết này, nhất định bạn sẽ có một bài văn phân tích chi tiết và đầy đủ nội dung. Qua dàn ý này, người đọc sẽ thấy sẽ cuộc đời lưu lạc của Thúy Kiều. Cũng như lời nhờ vã đến Thúy Vân. Qua đó chúng ta có thể thấy rõ tình cảm sâu sắc của một người con dành cho cha của mình.
Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo và chiêm nghiệm!
Tổng kết lại, qua 12 câu đầu của bài viết về chủ đề Trao Duyên trong Truyền Kiều của Nguyễn Du, chúng ta có thể thấy được sự tâm huyết và tài năng của tác giả trong việc tái hiện tình yêu đầy cảm xúc giữa Kiều và Kim Trọng. Một tình yêu cay đắng và đầy bi kịch, nhưng cũng vô cùng đẹp đẽ và sâu lắng. Chữ “Duyên” đã được Nguyễn Du đặt lên đầu để thể hiện sự định đoạt của số phận trong cuộc đời con người. Ngoài ra, qua từng dòng thơ tuyệt đẹp, Nguyễn Du cũng muốn nhắc nhở chúng ta về những giá trị văn hóa, đạo đức và tình cảm mà con người cần phải trân trọng và giữ gìn. Tình yêu đẹp trong Truyền Kiều không chỉ là một câu chuyện tình buồn mà còn là một thông điệp sâu sắc về chân thành, tình người và cảm xúc con người. Như vậy, chủ đề Trao Duyên trong Truyền Kiều của Nguyễn Du đã góp phần làm đẹp thêm vẻ đẹp tinh khôi của văn học Việt Nam cổ đại, và vẫn đang làm lay động trái tim của nhiều người đọc cho đến ngày nay.
Cảm ơn bạn đã xem bài viết Dàn ý 12 câu đầu Trao Duyên trong Truyền Kiều (Nguyễn Du) tại Thcshoanghiep.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.
Từ Khoá Liên Quan:
1. Trao Duyên
2. Truyền Kiều
3. Tình yêu
4. Lòng Trung Thành
5. Chí Ngôn
6. Kỳ Duyên
7. Tri Kỷ
8. Tình Cảm
9. Lời Hứa
10. Tình Nghĩa