Vào thời Tiên Tần, người ta đã biết đào đá viên vào mùa đông và cất trong hầm để dùng trong mùa hè nóng bức. Người chịu trách nhiệm khai thác, lưu trữ và sử dụng băng trong triều đại nhà Chu được gọi là lăng.
Không có điều hòa, người xưa có hầm băng
Khi đó, phòng băng – nơi chứa băng được gọi là lăng mộ, có thể trữ băng từ mùa đông sang mùa hè. Thùng đá bằng đồng có tên gọi là “đá tảng”, được coi là chiếc tủ lạnh cổ xưa.
Vào thời nhà Tống, việc quản lý băng thậm chí còn được liệt vào hàng quốc sự cùng với chính sách quản lý ngựa, muối và chè.
Vào thời Tiên Tần, mùa đông người ta đào đá viên cất trong hầm để dùng cho mùa hè nóng bức.
Sau đó, người ta tìm ra cách giữ băng trong tầng hầm (thường được gọi là hầm băng) vào mùa đông, để băng có thể được sử dụng cho năm sau.
Tuy nhiên, nếu bảo quản theo cách này, khoảng 2/3 lượng băng dự trữ bị tan chảy hàng năm. Vì lý do đó, người xưa thường tăng lượng đá dự trữ lên gấp 3 lần lượng đá cần sử dụng.
Không có tủ lạnh, người xưa có đá
Băng đá được ví như chiếc tủ lạnh thời bấy giờ, bởi nó được dùng để đựng và bảo quản thực phẩm trong những ngày hè nóng bức.
Ngăn đá được ví như chiếc tủ lạnh cổ xưa.
Hai bên thành hộp là các vòng nâng, phía trên có nắp đậy. Khi mở nắp, bên trong xuất hiện 2 lớp giống chữ “回”, lớp ngoài đựng đá, lớp trong đựng đồ cần giữ lạnh.
Hoàng gia và quý tộc có thể thưởng thức đồ uống có đá và rượu vang ướp lạnh. Tape là một “tủ lạnh không chứa florua” thân thiện với môi trường.
Không có chiếu lạnh, người xưa có trường kỷ
Người xưa sử dụng nhiều loại giường cho mùa hè, trong đó phổ biến nhất là trường kỷ bằng mây hoặc bằng gỗ. Có hai loại ghế sofa là ghế sofa hộp và ghế sofa khung.
Không có chiếu lạnh, người xưa có trường kỷ.
Vùng sản xuất chiếu trúc quan trọng nhất là ở Kỳ Châu, tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc). Nó có rất nhiều tre, màu sắc tươi sáng, các dải tre nhẹ và mềm. Vì vậy chúng rất thích hợp để làm chiếu.
Nhiều thi nhân ở hai triều Đường, Tống khi nhắc đến Ký Châu đều hết lời ca ngợi chiếu trúc nơi này. Hàn Dũ có lần được người bạn tốt là Trịnh Quân tặng một chiếc chiếu trúc, ánh sáng vàng rực rỡ của chiếc chiếu khiến chàng mê mẩn, còn được cả nhà khen ngợi.
Ngoài ra, còn có một loại vật dụng giữ nhiệt bằng tre – Trúc bà (gối tre rỗng). Nó được làm bằng những nan tre, hoặc một đoạn tre nguyên tấm rỗng ruột, xung quanh được đục lỗ để thông gió, tạo cảm giác mát mẻ khi sử dụng.
Sở dĩ người xưa đặt cho nó cái tên nhã nhặn Trúc Bà có lẽ vì nó giống một quý cô khi có chăn, gối, lại có thêm ấm nước nóng dùng vào mùa đông.
Chưa có quạt điện, người xưa có quạt tròn
Hình ảnh ông già cầm chiếc quạt tròn ngồi dưới bóng cây xuất hiện rất nhiều trên các con đường, ngõ hẻm ở Nam Bộ.
Hình ảnh ông già cầm chiếc quạt tròn ngồi dưới bóng cây xuất hiện rất nhiều trên các con đường, ngõ hẻm ở Nam Bộ.
Quạt hương là một loại quạt tròn, một trong những kiểu quạt địa phương sớm nhất của Trung Quốc với lịch sử hàng nghìn năm. Chúng có nguồn gốc từ thời Tiền Tần – Hán, phổ biến vào thời Đường – Tống, phần lớn có hình tròn nên được gọi là quạt tròn.
Ngoài ra, quạt bồ công anh còn có hình lục giác, bát giác, hình trống, hình lá chuối và các kiểu dáng khác. Người ta thường dùng lá bồ công anh hoặc sợi tre mảnh, cỏ măng tây để đan, vừa rẻ vừa thiết thực.
Nguồn: Sohu