Tie-dye là nhuộm bằng cách buộc từng phần vải để màu không bị lem. Đây là cách nhuộm tạo hiệu ứng ngẫu nhiên cho màu sắc hiển thị trên vải.
Các phương pháp và phong cách nhuộm cà vạt rất đa dạng, hầu hết đều có nguồn gốc riêng từ khắp thế giới cổ đại, từ Peru đến Nigeria, Nhật Bản và Đông Nam Á.
Mỗi nền văn hóa đều tìm ra những nét độc đáo để thêm vào thiết kế của mình, bao gồm nhuộm vải buộc vào que, vẽ hoa văn bằng sáp hoặc tạo nút thắt bằng gạo, đá hoặc hạt. Tuy nhiên, trong suốt lịch sử, kiểu nhuộm cà vạt tùy chỉnh có thể thể hiện địa vị, vai trò và niềm tin của một cá nhân.
Không thể nói nền văn hóa nào phát triển kiểu nhuộm cà vạt đầu tiên và khi nào. Ông Lee Talbot, người phụ trách Bảo tàng và Bảo tàng Dệt may Đại học George Washington (Mỹ), cho biết điều đó được chứng minh bằng sự “hoàn hảo” trong những mẫu vật sớm nhất còn sót lại được tìm thấy.
Các chuyên gia về lịch sử dệt may đều đồng ý về ý nghĩa văn hóa đằng sau các phương pháp nhuộm cà vạt khác nhau trên khắp thế giới và cách chúng tồn tại cho đến ngày nay.
Bandhani ở Ấn Độ
Bandhani là hình thức nhuộm cà vạt lâu đời nhất được biết đến , có niên đại từ 4.000 năm trước Công nguyên trong Nền văn minh Thung lũng Indus, nằm ở khu vực phía Bắc của Ấn Độ ngày nay. Hình thức này vẫn được áp dụng ở Ấn Độ.
Các mẫu Bandhani được tạo ra bằng cách buộc vải thành từng bó nhỏ bằng chỉ trước khi nhuộm. Một loạt các búi nhỏ này giúp vải bên dưới không bị ảnh hưởng bởi thuốc nhuộm, tạo thành các đường xoáy và hoa văn trên quần áo như sari (quần áo được phụ nữ Ấn Độ yêu thích), khăn quàng cổ và khăn quàng cổ. cổ và khăn xếp.
Theo Trợ lý Giáo sư Natalie khỏa thân, tại Viện Công nghệ Thời trang (Mỹ), các mẫu khăn rằn hiện đại được sử dụng ở phương Tây đều phát triển từ khăn rằn.
Một số mô tả cổ xưa nhất về bandhani được lưu giữ trong hồ sơ và tranh vẽ tại hang động Ajanta ở miền Trung Ấn Độ. Ở miền Bắc Ấn Độ, vải nhuộm bandhani được nhắc đến trong các bài hát và thơ ca như biểu tượng của tình yêu.
Ông Talbot cho biết mối liên hệ giữa vải nhuộm bandhani và tình yêu vẫn tồn tại ở Ấn Độ ngày nay – vải bandhani thường được sử dụng và làm quà tặng trong các đám cưới.
Amarra ở Peru
Amarra xuất hiện khoảng 1.500 năm trước ở Peru. Hình thức nhuộm cà vạt này lan rộng khắp châu Mỹ đến vùng Tây Nam nước Mỹ. Tại đây, một số loại vải nhuộm amarra sớm nhất được người Pueblo tổ tiên tạo ra đã được phát hiện có niên đại từ thế kỷ thứ 10.
Theo học giả Laurie Webster của Đại học Arizona (Mỹ), điểm đặc biệt của amarra là thiết kế dạng lưới gồm những viên kim cương có chấm ở giữa, hoa văn tượng trưng cho da rắn hoặc cánh đồng ngô.
Bà Webster cho biết đây là những mô típ thiêng liêng đối với các nhóm bản địa ở châu Mỹ. Họ sử dụng kiểu nhuộm cà vạt này để tạo ra các thiết kế trên quần áo, chăn màn và các loại vải trang trí khác.
Theo bà Webster, trong các bức bích họa còn sót lại và các hình ảnh khác, các vị thần và các nhân vật tôn giáo thường được miêu tả mặc đồ nhuộm kiểu amarra.
Người Wari cổ đại ở Peru là bậc thầy về kỹ thuật amarra. (Ảnh: Bảo tàng Dệt may (Mỹ)).
Vải nhuộm Bandhani ở Ấn Độ. (Ảnh: Nhóm Adair).
Shibori ở Đông Á
Mặc dù kỹ thuật nhuộm shibori có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng chúng được biết đến nhiều nhất như một loại hình nghệ thuật của Nhật Bản hơn 1.000 năm trước. Những mẫu shibori đầu tiên còn sót lại ở Trung Quốc có niên đại từ thế kỷ thứ 4. Tục lệ này vẫn còn được thực hiện ở đó, đặc biệt là ở các dân tộc thiểu số ở phía tây nam Trung Quốc.
Đối với một phương pháp nhuộm shibori, người thợ thủ công đặt một hạt gạo hoặc miếng kim loại nhỏ vào từng cục vải và buộc chặt bằng chỉ. Sau khi vải được nhuộm, các sợi chỉ được tháo ra, tạo thành những vòng tròn nhỏ. Quá trình buộc, nhuộm và cởi này tốn rất nhiều thời gian để tạo ra những họa tiết phức tạp.
Theo bà Nutell, đây là kỹ thuật cực kỳ tốn thời gian và công sức nhưng lại được đánh giá cao ở Nhật Bản. Cô cho biết nông dân đã sử dụng màu chàm để tạo ra các họa tiết shibori trên quần áo làm từ cây gai dầu. Những bộ kimono lụa nhuộm Shibori rất đắt tiền và hầu hết được mặc bởi tầng lớp thượng lưu.
Vải nhuộm Shibori rất được giới quý tộc, người dân thị trấn giàu có và thậm chí cả kỹ nữ cấp cao ưa chuộng. Khi shibori trở thành biểu tượng của sự xa xỉ, chính phủ thời đó đã cấm nó hoàn toàn như một phần của luật xa xỉ của Nhật Bản.
Luật này quy định cách mỗi tầng lớp xã hội có thể ăn mặc và tiêu tiền của họ. Chính quyền khi đó coi việc duy trì thứ bậc là một trách nhiệm đạo đức. Một sắc lệnh đặc biệt được thông qua vào cuối thế kỷ 17 quy định rằng không ai được phép làm shibori.
Tuy nhiên, shibori vẫn phổ biến ngay cả trong thời gian bị cấm. Lệnh cấm shibori được dỡ bỏ vào năm 1868 và nó vẫn là một phong tục truyền thống phổ biến đối với kimono ở Nhật Bản.
Adire ở Nigeria
Ở Nigeria, người Yoruba áp dụng kỹ thuật nhuộm adire bằng cách xếp nếp vải trước khi buộc bằng chỉ hoặc sợi lá chuối rồi nhuộm. Giống như shibori, vải thường được nhuộm màu xanh chàm.
Họ cũng tạo ra các họa tiết hình tròn bằng cách bọc đá và hạt lớn bên trong vải, tương tự như shibori.
Đối với người Yoruba, bà khỏa thân cho biết, những thiết kế trang phục đáng ngưỡng mộ gắn liền với danh tính của một cá nhân. Một chiếc thảm khốc thường mang biểu tượng về địa vị văn hóa và xã hội của người mặc – chẳng hạn như tuổi tác hoặc cấp bậc của họ trong xã hội.
Vải được nhuộm theo cách truyền thống của người Nigeria. (Ảnh: AP).
Ông Talbot nói : “Mỗi nền văn hóa thể hiện kiểu nhuộm cà vạt hơi khác nhau và họ diễn giải nó theo gu thẩm mỹ của riêng mình .
Adire vẫn đóng một vai trò kinh tế và xã hội quan trọng đối với người Nigeria, vì việc tạo ra quần áo, chăn ga gối đệm và đồ trang trí mang lại cơ hội việc làm cho nông dân, thợ dệt và thợ nhuộm địa phương. Theo ông Talbot, trên toàn cầu, trong suốt nhiều thế kỷ, điều gì đó về kiểu nhuộm cà vạt đã thu hút sự chú ý của văn hóa.
- Dải Ngân Hà dường như đã trở thành một chiếc lồng vô hình đối với nhân loại!
- Xác định nơi sự sống có thể bắt nguồn trước Trái đất?
- Những hiện tượng thiên văn đáng mong đợi trong năm 2024