Khi phát hiện chồng ngoại tình, bạo lực gia đình hay những tật xấu, bất cẩn… nhiều người vợ muốn ly hôn nhưng lại lo lắng không biết nếu ly hôn có được nhận tài sản hay không. . Hay nhiều phụ nữ chỉ làm nội trợ, ở nhà chăm con, băn khoăn liệu việc chồng ly hôn có giành được quyền nuôi con hay tài sản hay không. Vì vậy trước khi quyết định nộp đơn ly hôn, mọi người nên đọc kỹ để được hưởng quyền lợi.
Nhiều người thắc mắc liệu người vợ ở nhà chăm con, nội trợ có được chia tài sản sau ly hôn không?
Vợ có quyền yêu cầu ly hôn không?
Khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn như sau:
1. Vợ, chồng hoặc cả hai đều có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn.
2. Cha mẹ và những người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một trong hai bên vợ, chồng do bệnh tâm thần hoặc bệnh khác không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. là nạn nhân của bạo lực gia đình do vợ, chồng gây ra, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống, sức khỏe và tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang mang thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Ly hôn theo yêu cầu của một bên được quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn nhưng hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án cho ly hôn nếu có căn cứ chứng minh vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ. Sự phục vụ của vợ chồng đã khiến hôn nhân rơi vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trường hợp vợ, chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ chứng minh vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia đình gây ảnh hưởng nghiêm trọng. đến cuộc sống, sức khỏe hoặc tinh thần của người khác.
Nếu người vợ chỉ ở nhà chăm con thì khi ly hôn có được chia tài sản không?
Theo khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, tài sản chung của vợ chồng bao gồm tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập từ lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi nhuận phát sinh. tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, tài sản vợ chồng thừa kế hoặc tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng.
Vì vậy, nếu có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trong thời kỳ hôn nhân thì tài sản này được coi là tài sản chung của vợ chồng.
Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố như:
– Hoàn cảnh gia đình và vợ chồng;
– Đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển tài sản chung;
– Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh, nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục làm việc để tạo thu nhập;
– Lỗi của mỗi bên vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Điểm b khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Tư pháp, vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con cái và gia đình nhưng không đi làm được tính là một người có thu nhập. tương đương với thu nhập của một người chồng hoặc người vợ đang đi làm.
Vì vậy, dù người vợ không đi làm mà chỉ ở nhà chăm con và làm việc nhà thì cũng được quyền chia tài sản khi ly hôn. Trường hợp hai bên không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định.