Cơ thể con người là mảnh đất màu mỡ cho những “quái vật” kinh dị ký sinh. Chúng ăn, sống, sinh sản rồi quay lại làm hại chúng ta.
Nỗi kinh hoàng của ký sinh trùng trên cơ thể con người
1. Ấu trùng ruồi trâu – làm tổ dưới da
Botfly thuộc họ Oestroidea , sống chủ yếu ở Mexico, Trung và Nam Mỹ. Vòng đời của nó bắt đầu khi một con ruồi trâu cái bắt cóc và đẻ trứng trên các loài động vật chân đốt hút máu, chẳng hạn như muỗi hoặc bọ chét . Vectơ truyền bệnh này sau đó sẽ được thả ra để tiếp tục ăn thịt các động vật khác, thường là vật nuôi và con người.
Trứng ruồi trâu sẽ lây nhiễm sang vật chủ. Chúng phản ứng với sự thay đổi nhiệt độ khi truyền từ vật trung gian sang vật chủ và nở thành ấu trùng. Ấu trùng này sẽ đào làm tổ và hút máu dưới da vật chủ thông qua vết đốt của vectơ hoặc qua các lỗ chân lông. Khu vực chúng làm tổ sẽ sưng lên và tiết ra mủ, dịch gây đau đớn.
Ấu trùng làm tổ trong vật chủ khoảng 12 tuần cho đến khi chúng đủ lớn. Sau đó chúng bò ra ngoài, rơi xuống đất và hóa nhộng trong đất. Ở đó, chúng làm kén cho đến khi phát triển thành ruồi trưởng thành và bắt đầu vòng đời mới.
Điều trị: Cách thông thường là phẫu thuật loại bỏ ấu trùng ký sinh ra khỏi vật chủ hoặc đơn giản là bóp vết thương để đẩy ấu trùng ra ngoài.
Cách phòng ngừa: bôi thuốc chống muỗi, mặc quần áo bảo hộ, ngủ trong mùng để tránh muỗi hoặc bọ chét cắn.
2. Schistosoma mansoni – tổ trong não
Schistosoma mansoni là một loài sán lá chuyên hút máu động vật có vú. Chúng sống ở các hồ nước ngọt ở Châu Phi, Châu Á và Nam Mỹ. Vòng đời của chúng bắt đầu khi một con giun trưởng thành đẻ trứng trên các mạch máu xung quanh thành ruột của vật chủ. Trứng thải ra ngoài theo phân. Khi tiếp xúc với nước, chúng nở thành ấu trùng cực nhỏ. Ấu trùng này sẽ bám vào ốc và bò qua cơ thể mềm mại của ốc. Ở đó, chúng phát triển thành ấu trùng giun, lớn lên và dần dần chui ra khỏi cơ thể ốc sên để tìm một sinh vật chủ khác có nguồn cung cấp máu.
Khi vật nuôi hoặc con người tiếp xúc với nguồn nước này, axit béo trên da sẽ thu hút ấu trùng khiến chúng bơi tới và bám vào vật chủ. Chúng tìm những vết thương hở hoặc lỗ chân lông, giải phóng một loại hóa chất có khả năng phân hủy da tạo ra một lỗ nhỏ đủ để chúng bơi vào cơ thể vật chủ. Khi vào bên trong vật chủ, chúng hút máu và phát triển thành giun trưởng thành. Chúng thường sống trong các mạch máu gần gan.
Chúng giao phối trong mạch máu và đẻ trứng gần thành ruột. Trứng này sẽ bám vào phân của vật chủ và bắt đầu một vòng đời mới.
Bệnh sán máng là bệnh phổ biến ở các vùng nhiệt đới, đặc biệt là Châu Phi . Người ta ước tính mỗi năm có khoảng 200 triệu người trên thế giới nhiễm loại sán này. Nó có thể tồn tại trong cơ thể vật chủ hàng chục năm mà không bị phát hiện, âm thầm phá hủy các cơ quan nội tạng của vật chủ như gan, ruột, phổi, lá lách. Nó có thể gây tử vong nếu giun đi lạc vào não.
Ở trẻ em, bệnh có thể gây thiếu máu, suy dinh dưỡng, ảnh hưởng đến khả năng học tập. Trong một số trường hợp nghiêm trọng, giun di chuyển lên não, đẻ trứng và làm tổ trong não hoặc tủy sống, gây đột quỵ, liệt hoặc thậm chí tử vong.
Cách điều trị: dùng thuốc tẩy giun có chứa Praziquantel để làm tê liệt giun là cách phổ biến nhất.
Phòng ngừa: tránh tiếp xúc với nguồn nước bị ô nhiễm, đặc biệt là nước thải.
3. Rệp – hút máu
Vòng đời của rệp bắt đầu bằng hành động giao phối bạo lực của con đực khi nó dùng bộ phận sinh dục của mình đâm vào lưng con cái và thụ tinh cho trứng. Vết thương của con cái sẽ lành trong vòng 24 giờ, sau đó nó sẽ bắt đầu đẻ trứng; Mỗi ngày nó đẻ khoảng 12 quả trứng và trong suốt cuộc đời nó có thể đẻ 500 quả trứng. Trong vòng 10 ngày, trứng sẽ nở thành nhộng và ngay lập tức những con nhộng này bị thu hút bởi dòng máu ấm của động vật như gia súc hay con người.
CO2 trong hơi thở của con người và nhiệt độ cơ thể là những yếu tố thu hút rệp. Chúng sử dụng vòi của mình để hút máu vật chủ chủ quan (trong khi ngủ) (rệp thường sống về đêm). Sau khi ăn, rệp ẩn nấp để tiêu hóa khoảng 7 ngày rồi quay trở lại kiếm ăn. Chúng lột xác khoảng bốn lần trước khi trưởng thành, giao phối và bắt đầu một vòng đời mới.
Khi bị cắn, các triệu chứng thường xuất hiện ngứa ngáy và vết cắn trở nên đỏ và sưng tấy . Chúng cũng gây bồn chồn và khó chịu vào ban đêm.
Điều trị : các loại thuốc có chứa thuốc kháng histamine hoặc corticosteroid thường được kê đơn để giảm các triệu chứng do rệp cắn. Thuốc mỡ sát trùng và kháng sinh cũng được sử dụng để ngăn ngừa nhiễm trùng. Sau khi phát hiện vết rệp cắn, bạn phải giặt toàn bộ quần áo, nệm, giường để tiêu diệt hoàn toàn chúng.
Phòng ngừa : Giặt sạch quần áo, nệm, giường, ghế thường xuyên.
4. Ký sinh trùng amip – ăn não
Naegleria fowleri là loại ký sinh trùng được tìm thấy chủ yếu ở nước ngọt và đất . Vòng đời của chúng bắt đầu dưới dạng những nang bám dưới đáy hồ nước ngọt. Chúng xâm nhập vào cơ thể con người qua đường mũi khi tiếp xúc với nước bị nhiễm ấu trùng giun, đặc biệt khi vật chủ bơi ở vùng nước ngọt như sông, hồ hay bể bơi không được khử trùng. Từ mũi, chúng bơi lên não và tủy sống, nơi chúng bắt đầu phá hủy mô não . Khi bị hệ thống miễn dịch tấn công hoặc khi môi trường không thuận lợi, chúng có khả năng tạo ra một lớp áo giáp để tự vệ. Khi nguy hiểm qua đi, chúng lột xác, bắt đầu phân chia và một vòng đời mới bắt đầu. Chúng là loài ký sinh ưa nhiệt nên bệnh lây lan nhanh vào mùa hè.
Ký sinh trùng amip ( Naegleria fowleri ) thường gây viêm não nặng dẫn đến tử vong do mô não bị phá hủy. Các triệu chứng thường xuất hiện 2 tuần sau khi nhiễm bệnh, biểu hiện là đau đầu, sốt, buồn nôn và cứng cổ. Trường hợp nặng hơn, người bệnh cảm thấy chóng mặt, mất thăng bằng. Cũng có thể có đột quỵ và ảo giác. Diễn biến bệnh rất nhanh, có thể gây tử vong sau 3-7 ngày.
Điều trị: không có điều trị cụ thể.
Phòng bệnh: Tránh tiếp xúc với nguồn nước bị ô nhiễm. Sử dụng kẹp mũi khi bơi để hạn chế lây lan.
5. Bệnh giun chỉ Wuchereria – gây bệnh chân voi
Bệnh giun chỉ Wuchereria bancrofti là một loại ký sinh trùng phổ biến ở Đông Nam Á . Vòng đời của nó bắt đầu khi một con muỗi bị nhiễm ấu trùng giun hút máu từ cơ thể vật chủ, hàng trăm ấu trùng sẽ bò vào máu. Chúng sẽ di chuyển đến các mạch bạch huyết, nơi chúng phát triển thành những con giun trưởng thành dài 7-10cm. Giun trưởng thành sản sinh ra vô số ấu trùng, chúng rời khỏi mạch bạch huyết và di chuyển đến các cơ quan khác trong cơ thể. Ban ngày ấu trùng cư trú trong phổi. Vào ban đêm, khi nhiệt độ cơ thể vật chủ giảm xuống, chúng bò ra khỏi da để bị muỗi mang đi phân tán, bắt đầu một vòng đời mới.
Trong trường hợp nặng, giun tim gây ra bệnh phù chân voi – sưng tấy ở chân với kích thước khủng khiếp. Giun tim có thể ký sinh hàng chục năm trong cơ thể trước khi được phát hiện qua các triệu chứng hô hấp (do ấu trùng tập trung ở phổi) thường bị nhầm với bệnh hen suyễn. Qua nhiều năm, xác giun tích tụ trong mạch bạch huyết gây sưng chân, mủ, rỉ dịch ở chân tóc.
Điều trị: dùng thuốc chống ký sinh trùng kết hợp tắm rửa và chăm sóc da kỹ lưỡng. Tập thể dục và xoa bóp có thể làm giảm đau.
Phòng ngừa: bôi thuốc chống côn trùng và sử dụng màn chống muỗi khi đi ngủ.
6. Bệnh giun lươn
Strongyloides được xếp vào một trong những loại ký sinh trùng đường tiêu hóa nguy hiểm nhất nhưng vẫn được WHO xếp vào loại bệnh bị bỏ quên. Bác sĩ Bùi Tiến Sỹ, Khoa Vi sinh, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, cho biết giun lươn được xếp vào loại nguy hiểm nhất trong các loại ký sinh trùng đường tiêu hóa.
Strongyloides là loại giun ký sinh ở người gây bệnh đường ruột . Ở giai đoạn ấu trùng, chúng có hình dạng giống sợi chỉ và tồn tại độc lập trong đất mà không cần vật chủ. Vòng đời của nó bắt đầu khi ấu trùng tiếp xúc với vật chủ. Khi vật chủ tiếp xúc với đất bị nhiễm phân, ấu trùng sẽ xâm nhập vào da và di chuyển đến động mạch phổi, từ đó chúng tiếp tục di cư. di chuyển đến cơ quan hô hấp của vật chủ và đợi cho đến khi được nuốt vào ruột.
Trong hệ tiêu hóa, chúng làm tổ và kiếm ăn thoải mái trong ruột non cho đến khi trưởng thành và tiếp tục sinh sản. Mỗi con cái trưởng thành có thể sống tới 5 năm. Chúng đẻ ấu trùng vào phân của vật chủ, ấu trùng thoát ra khỏi phân và tiếp tục vòng đời bất tận của mình. Đôi khi ấu trùng không rời khỏi cơ thể qua phân mà lột xác để phát triển thành ấu trùng ký sinh trong ruột. Những ấu trùng này sau đó sẽ xuyên qua thành ruột và di chuyển khắp cơ thể đến gan và thận. phổi.
Bệnh giun lươn phân bố rộng rãi trên toàn cầu. Theo ước tính, số người nhiễm giun lươn lên tới 613,9 triệu người, tương đương 8,1% dân số toàn cầu. Trong đó, Đông Nam Á là khu vực có tỷ lệ lây nhiễm cao nhất. Myanmar là quốc gia có tỷ lệ lây nhiễm cao nhất khu vực.
Tại Việt Nam , thống kê kết quả xét nghiệm phân trực tiếp cho thấy tỷ lệ mắc bệnh giun lươn trong cộng đồng là 0,2% – 2,5%. Nghiên cứu trên 2.000 mẫu huyết thanh của bệnh nhân khám tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2016, 2017 cho thấy tỷ lệ mắc bệnh giun lươn là 20%.
Vật chủ bị nhiễm giun lươn thường biểu hiện các triệu chứng đường ruột như chướng bụng, đau bụng và tiêu chảy . Chúng cũng có thể gây phát ban, thường ở chân và đôi khi lan khắp cơ thể. Nếu nhiễm trùng nghiêm trọng khắp cơ thể, nó có thể gây ho, thở khò khè và một số triệu chứng tương tự như viêm màng não.
Strongyloides có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm ở đường tiêu hóa. (Ảnh: Dreamtime).
Ngoài ra, bệnh còn có thể gây tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa, dẫn đến loét hoặc thủng ruột. Người bệnh sẽ đau bụng vùng phía trên bên phải, tiêu chảy, sốt bất thường và ho. Các tình trạng nghiêm trọng hơn bao gồm tiêu chảy có chất nhầy, máu, thiếu máu, phù nề và cổ trướng.
Điều trị: khi phát hiện nhiễm giun lươn cần điều trị ngay. Thuốc điều trị loại giun này thường là ivermectin hoặc albendazole. Nếu nghi ngờ mình bị nhiễm giun, hãy đến gặp bác sĩ ngay để điều trị kịp thời, tránh những biến chứng nguy hiểm.
Phòng trừ : Giun thường được tìm thấy ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ở những khu vực này, nên tránh tiếp xúc trực tiếp với da với đất bị nhiễm phân. Xây dựng hệ thống xử lý chất thải.
7. Ký sinh trùng Toxoplasma gondii – gây viêm não do toxoplasma
Ấu trùng đuôi mèo trong mắt
Bệnh Toxoplasmosis do ký sinh trùng đơn bào Toxoplasma gondii gây ra. Mèo là vật chủ duy nhất trong giai đoạn giao phối của loài này nên mèo thường là nguồn lây nhiễm. Vòng đời của loại ký sinh trùng này bắt đầu khi nó tạo ra một số lượng lớn bào tử trong ruột non của mèo. Những bào tử này thoát ra qua chất bài tiết của mèo. Chất thải sau đó được các loài gặm nhấm như chuột ăn. Một điều kỳ lạ là khi bị nhiễm ký sinh trùng, loài gặm nhấm (chuột) thường có những thay đổi về thần kinh. Trên thực tế, ký sinh trùng này đã chiếm lấy phần não kiểm soát nỗi sợ hãi của chuột đối với mèo nên chuột bị nhiễm bệnh thường mất kiểm soát và bị mèo bắt ăn thịt, do đó vòng đời của ký sinh trùng vẫn tiếp tục. Sự sinh ra này sau đó lại bắt đầu.
Con người có thể vô tình bị nhiễm ký sinh trùng này thông qua thực phẩm hoặc các con đường lây nhiễm khác. Phân mèo bị nhiễm bệnh có thể làm ô nhiễm các vật dụng trong nhà, đất và thậm chí cả nguồn nước uống. Phụ nữ mang thai bị nhiễm ký sinh trùng toxoplasma sẽ truyền bệnh cho thai nhi.
Khi lây nhiễm vào cơ thể con người, ký sinh trùng toxoplasma hình thành các u nang trong mô , thường là cơ xương, trong não và mắt. Mặc dù nhiều người bị nhiễm ký sinh trùng này không biểu hiện bất kỳ triệu chứng nào vì hệ thống miễn dịch của họ kiểm soát ký sinh trùng này. Khi cơ thể bị bệnh, hệ miễn dịch suy yếu và sẽ xuất hiện một số triệu chứng giống như cảm cúm. Chúng tồn tại trong vài tuần rồi biến mất. Tuy nhiên, ký sinh trùng này vẫn không hoạt động trong cơ thể và sẽ hoạt động trở lại khi hệ thống miễn dịch suy yếu, gây ra một số bệnh về mắt cấp tính như viêm võng mạc màng đệm và có thể dẫn đến mất thị lực.
Một số nghiên cứu khác đang được tiến hành để kiểm tra xem loại ký sinh trùng này – với khả năng gây ra những thay đổi hành vi ở động vật bị nhiễm bệnh – có liên quan đến bệnh tâm thần phân liệt hay không.
Trong trường hợp phụ nữ mang thai bị nhiễm ký sinh trùng có thể gây sẩy thai, thai chết lưu hoặc trẻ mắc bệnh toxoplasmosis bẩm sinh có đầu to bất thường.
Điều trị: người khỏe mạnh có khả năng kháng lại ký sinh trùng này mà không cần điều trị. Nhiễm trùng nặng có thể được điều trị bằng hỗn hợp pyrimethamine, sulfadiazine và axit folinic. Phụ nữ mang thai, trẻ sơ sinh, người mắc bệnh về mắt và người có hệ miễn dịch yếu cần một số phương pháp điều trị hỗ trợ khác.
Phòng bệnh: ăn đồ nấu chín, uống nước đun sôi. Việc đông lạnh thịt trong vài ngày cũng giúp giảm nguy cơ nhiễm trùng, gọt vỏ và rửa rau cẩn thận, đeo găng tay khi làm vườn. Nên cho mèo ăn thức ăn nấu chín. Phụ nữ mang thai không nên tiếp xúc với mèo.
- Demodex – Loài rận chuyên ký sinh… trên da mặt người
- Ve chó cắn người nguy hiểm khó lường
- Tìm thấy sinh vật đầu tiên không cần oxy để tồn tại