Bathysphere, tàu lặn được phóng cách đây gần 100 năm, giúp hiện thực hóa mong muốn được quan sát trực tiếp các sinh vật biển sâu của các nhà khoa học .
Năm 1925, nhà tự nhiên học người Mỹ William Beebe đề xuất ý tưởng về một phương tiện lặn có thể đưa con người xuống biển sâu. Tính đến cuối những năm 1920, độ sâu lớn nhất mà con người có thể lặn an toàn với mũ lặn chỉ là vài trăm feet (1 ft tương đương khoảng 0,3 m). Tàu ngầm lúc đó đạt độ sâu tối đa 117m nhưng không có cửa sổ nên vô dụng đối với mục tiêu quan sát động vật biển sâu của Beebe. Độ sâu lớn nhất mà con người từng lặn xuống vào thời điểm đó là 160 m với áo giáp, nhưng những bộ quần áo này cũng khiến việc di chuyển và quan sát trở nên rất khó khăn.
William Beebe (trái) và Otis Barton (phải) với tàu lặn Bathysphere. (Ảnh: Những bức ảnh lịch sử hiếm hoi).
Beebe hy vọng có thể tạo ra một con tàu vừa có thể lặn sâu hơn nhiều so với kỷ lục vào thời điểm đó, vừa cho phép ông quan sát và ghi lại rõ ràng động vật hoang dã dưới đáy đại dương sâu thẳm. Cuối cùng, Beebe hợp tác với kỹ sư Otis Barton , người có tham vọng trở thành nhà thám hiểm biển sâu. Barton thiết kế con tàu có dạng hình cầu, bởi hình dạng hình cầu giúp chịu được áp lực rất lớn.
Quả cầu có lỗ cho ba cửa sổ dày 76mm được làm từ thạch anh nung chảy, vật liệu trong suốt bền nhất vào thời đó. Một cánh cửa nặng 180kg sẽ được đóng lại trước khi tàu chìm. Oxy được cung cấp từ các bình áp suất cao đặt bên trong quả cầu, trong khi các thiết bị chứa vôi soda và clorua canxi được gắn bên trong thành tàu để hút ẩm và giải phóng CO 2 . Có một chiếc đèn được gắn ngay trên một trong các cửa sổ để chiếu sáng các sinh vật bên ngoài. Con tàu còn được trang bị hệ thống điện thoại giúp người bên trong liên lạc được bên trên.
Beebe đặt tên con tàu là Bathysphere theo tên chi Bathytroctes , một nhóm cá biển sâu. Để vận hành, tàu được hạ xuống nước bằng dây cáp.
Sau khi phiên bản đầu tiên của quả cầu được đúc vào tháng 6 năm 1929, các chuyên gia nhận thấy nó quá nặng để có thể nâng và hạ xuống biển bằng tời. Điều này khiến Barton làm tan chảy quả cầu và đúc lại nó.
Thiết kế cuối cùng trở nên nhẹ hơn, là một quả cầu rỗng bằng thép đúc dày 25mm với đường kính 1,45m. Khi ở trên đất liền, trọng lượng của nó là 2,25 tấn. Cáp thép dài 910m và nặng 1,35 tấn. Con tàu còn được trang bị camera, nhiệt kế và máy đo độ sâu.
Vào ngày 11/6/1930, Bathysphere hạ xuống độ sâu 400m, sau đó đạt tới 900m vào năm 1934. Qua những lần lặn này, con tàu đã thể hiện được khả năng của mình nhưng cũng bộc lộ những điểm yếu. Việc vận hành rất khó khăn và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đứt cáp kết nối có thể gây tử vong cho người quan sát.
Mô phỏng tàu lặn Bathysphere hoạt động ở vùng biển sâu. (Ảnh: Else Bostelmann).
Beebe tiếp tục tiến hành nghiên cứu trong những năm 1930. Nhưng lúc đó, anh cảm thấy mình đã quan sát đủ với Bathysphere và việc tiếp tục lặn sẽ quá tốn kém so với những kiến thức anh thu được. Khi Thế chiến thứ hai nổ ra, Bermuda được chuyển đổi thành căn cứ quân sự, phá hủy đáng kể môi trường tự nhiên và khiến việc nghiên cứu kỹ hơn về nó trở nên không thực tế.
Sau khi Beebe ngừng sử dụng Bathysphere, nó vẫn là tài sản của Hiệp hội Động vật học New York. Con tàu được cất giữ cho đến khi được trưng bày tại Hội chợ Thế giới New York năm 1939. Năm 1957, con tàu được trưng bày tại Thủy cung New York.
Mặc dù công nghệ của Bathysphere dần trở nên lỗi thời và được thay thế bằng các tàu lặn tiên tiến hơn, nhưng con tàu đã giúp các nhà nghiên cứu lần đầu tiên có thể quan sát động vật biển sâu trong môi trường tự nhiên của chúng, kiếm tiền làm gương cho nhiều nhà nghiên cứu khác noi theo. tương lai. Vì vậy, những đóng góp của Bathysphere cho ngành hải dương học và thám hiểm biển sâu vẫn rất đáng chú ý.
- Công nghệ giúp con người lặn sâu hàng trăm mét như thế nào?
- Trung Quốc nghiên cứu biến lá chắn năng lượng từ hư cấu thành hiện thực
- Ông bà của bạn đã dặn bạn tránh phơi quần áo vào ban đêm. Có cơ sở khoa học gì không?