Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh vừa nghiệm thu nhiệm vụ khoa học công nghệ “Xây dựng mô hình sản xuất giống cá rồng vàng tại Thành phố Hồ Chí Minh”.
Mô hình áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất giống cá rồng của các nhà khoa học Việt Nam giúp mang lại hiệu quả sản xuất và duy trì nguồn giống cá cảnh quý hiếm được ưa chuộng trên thị trường.
Nhu cầu về cá rồng ngày càng tăng cả trên thế giới và trong nước.
Giải quyết bài toán khó về nguồn giống
Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh vừa nghiệm thu nhiệm vụ khoa học công nghệ “ Xây dựng mô hình sản xuất cá rồng (Scleropages formosus) mang kiểu hình rồng vàng tại Thành phố Hồ Chí Minh”.
Theo ThS Nguyễn Thị Kim Liên (trưởng nhóm), Trung tâm ươm tạo doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao TP.HCM, hiện nay, tại TP.HCM, đối tượng sản xuất, kinh doanh cá cảnh rất đa dạng, trong đó cá rồng là chính. mục tiêu. vật có giá trị kinh tế cao. Cá rồng tượng trưng cho sự may mắn, mang lại sự giàu có và mang lại hạnh phúc. Vì vậy, cá rồng đã trở thành loài vật được nuôi không chỉ để làm vật trang trí trong nhà mà còn được coi là biểu tượng phong thủy cho gia chủ.
Nhu cầu về cá rồng ngày càng tăng cả trên thế giới và trong nước. Tuy nhiên, việc sản xuất giống cá này còn nhiều hạn chế do gặp khó khăn về nguồn cá bố mẹ, giá thành cao, tuổi trưởng thành dài, đòi hỏi phải đầu tư cả về vốn và cơ sở nuôi đủ lớn.
Đặc biệt ở giai đoạn sinh sản, sau khi trứng được thụ tinh, cá đực ngậm hết trứng vào miệng, quá trình này kéo dài khoảng 50 – 60 ngày. Trong giai đoạn này, cá đực hầu như không ăn, chỉ tập trung vào việc ấp trứng và bảo vệ cá con, kéo dài chu kỳ sinh sản.
Quy trình sản xuất giống cá rồng chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, chưa có quy trình ổn định, tỷ lệ ấp và nuôi cá bột còn sống còn thấp, cá thường xuyên bị bệnh trong quá trình nuôi. Thạc sĩ Nguyễn Thị Kim Liên cho biết: “Nhóm nghiên cứu tập trung vào mục tiêu phát triển phương pháp ấp trứng cá rồng hình rồng vàng nhằm tăng tỷ lệ ấp trứng và tỷ lệ sống trong vườn ươm cá con từ giai đoạn cá đã trưởng thành. mất hoàn toàn lòng đỏ, cá 3 tháng tuổi tăng 15 – 20% so với phương pháp cũ áp dụng tại hộ gia đình (tỷ lệ ấp, tỷ lệ sống 50 – 60%)”.
Nhóm nuôi cá bố mẹ trong hệ thống tuần hoàn nước và chuyển giao phương pháp ấp nhân tạo trứng cá rồng vàng. Trong đó, các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và tỷ lệ di cư của cá trong ấp nhân tạo bao gồm: Lưu lượng nước, nhiệt độ nước, mật độ ấp và thời gian thu trứng sau khi thụ tinh. Trứng được ấp trong bể kính tròn có thể tích 10 lít nước và bể được đặt bên trong bể kính.
Với nội dung hoàn thiện và chuyển giao quy trình nuôi cá rồng vàng từ giai đoạn tiêu hóa hoàn toàn lòng đỏ đến cá 3 tháng tuổi, nhóm đã chuyển giao quy trình kỹ thuật xử lý nước trong nuôi cá rồng. Kim Long qua đời, chuyển quy trình nuôi cá từ giai đoạn tiêu hóa hoàn toàn lòng đỏ sang cá 3 tháng tuổi.
Đặc biệt, kỹ thuật thả cá vào bể nuôi bao gồm nguồn cá dùng làm cá sinh sản nhân tạo, cá sau khi ăn hết noãn hoàng với kích thước cá bột dài khoảng 8 – 10cm, lựa chọn cá đồng đều, khỏe mạnh. , vây nguyên vẹn, phản xạ nhanh, màu sắc đặc trưng. Cá con được nuôi với mật độ 20 con/bể, kích thước 1,0 x 0,5 x 0,5m.
Cá rồng là loài cá cảnh rất được ưa chuộng với giá thành cao.
Cá sinh sản ổn định, màu sắc đẹp
Theo nhóm nghiên cứu, bể ương nuôi cá con cần đảm bảo các điều kiện: Độ sâu nước 30 – 40cm; Bể rộng rãi, sáng sủa để cá bơi lội, đặt trong nhà và được cung cấp oxy liên tục.
Bể kính được đặt trên khung sắt cao 2 – 3 tầng thuận tiện cho việc chăm sóc và theo dõi cá hàng ngày. Về kỹ thuật làm cá rồng vàng có màu vàng, khi cá đạt kích thước 15 – 16cm tiến hành tô màu cá bằng kỹ thuật chiếu sáng (dùng đèn LED trắng và nuôi cá trong bể composite màu trắng).
Sau một năm thực hiện nhiệm vụ, nhóm nghiên cứu đã chuyển giao cho cơ sở của ông Nguyễn Xuân Khoa (phường Phú Mỹ, quận 7, TP.HCM) quy trình sản xuất và nuôi cá rồng có kiểu hình rồng vàng cải tiến về mặt hiệu quả. kỹ thuật (tăng tỷ lệ sống và tỷ lệ ấp trứng lên 20%) và hiệu quả tài chính (tăng tỷ lệ cá rồng có kiểu hình ngoại cỡ lên 20%).
Các thông số kỹ thuật ghi nhận trong quá trình: Tỷ lệ cá bắt cặp tham gia sinh sản là 73,33%, số trứng thu được trung bình mỗi con đực là 28 quả, thời gian lấy trứng ra khỏi miệng cá rồng đực là 10 ngày. , tỷ lệ ủ đến khi cá ăn hết lòng đỏ là 80%, tỷ lệ sống của cá 3 tháng tuổi là 80%, tỷ lệ lên màu quá mức là 80%. Theo tính toán, mô hình áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất cá rồng giống bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho đơn vị sản xuất thêm 15%.
ThS Võ Thị Mộng Thu (Sở Thủy sản TP.HCM, thành viên hội đồng nghiệm thu) nhận xét nhóm nghiên cứu đã xây dựng và chuyển giao quy trình sản xuất, nuôi cá rồng cải tiến kiểu hình rồng vàng. hiệu quả kỹ thuật.
Mô hình có khả năng tạo ra sản phẩm có chất lượng, số lượng ổn định, màu sắc đẹp, cá khỏe, kiểu hình đẹp, đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng nên có thể nhân rộng vào thực tế, góp phần tăng thu nhập cho người sản xuất.
Hiện nay, cá cảnh mang lại hiệu quả kinh tế cho nhiều hộ nuôi, cơ sở sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, trong đó cá rồng vàng là loài cá có giá trị kinh tế cao nên việc chủ động cung cấp con giống cho thị trường cá cảnh là nhu cầu cần thiết.
Mô hình triển khai không chỉ phù hợp với Chương trình phát triển giống cây trồng, vật nuôi và nông nghiệp công nghệ cao tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2021 – 2025 mà còn góp phần đưa cá cảnh từ tiềm năng trở thành chủ lực. Đây là một trong những sản phẩm nông nghiệp chủ lực của TP.HCM trong chiến lược phát triển kinh tế, đáp ứng kỳ vọng trở thành trung tâm hạt giống của cả nước và khu vực.
- Những điều bạn chưa biết về cá rồng
- Việt Nam từng có loài cá rồng quý hiếm?
- Bắt được con cá rồng nặng gần 50kg ở sông Hậu